Vợ cóc của hoàng tử ếch – Quyển 3 – Chương 26

Chương 26: Gặp lại

“Tiểu Vũ, mẹ sẽ tìm được ngươi. Nếu cuộc sống của ngươi không tốt, mẹ sẽ mang ngươi trở về. Nhưng nếu ngươi hạnh phúc, mẹ sẽ bảo hộ ngươi từ xa.” Cô lại một lần nữa cúi đầu. Cái gói to trên người sắp lấp hết mặt nhưng cô vẫn cười.

Cái bao này dù nặng nhưng có thể bán để kiếm được ít tiền. Cô tiếp tục đi về phía trước. Nếu đói thì cô sẽ ăn đồ mang theo, còn khát thì sẽ uống nước ở vòi công cộng. Mỗi ngày cô đều trải qua bằng việc tìm kiếm nhặt nhạnh gì đó. Thỉnh thoảng cô cũng xem TV ở cửa hàng bên đường nhưng không thấy tin tức về Đường Mặc Vũ nữa.

Cô cúi người nhặt mấy cái chai, lọ người ta vứt trên đất rồi bỏ vào cái túi to đằng sau. Tiểu Hoàng lúc nào cũng đi theo cô không rời một bước. Cô nghỉ thì nó nghỉ, mà cô đi thì nó cũng đi.

Lạc Tuyết ngẩng đầu nhìn thoáng bầu trời trong xanh trên đầu. Thật tốt, lại một ngày mới đến. Cô ngồi xổm xuống, nhẹ nhàng vỗ đầu chú chó nhỏ. Quần áo trên người nó đã bẩn hết rồi nên cô giúp nó giặt sạch. Giờ Tiểu Hoàng lại giống trước kia, là một con chó lưu lạc được cô cưu mang chứ không phải là con chó của Đường gia.

“Chúng ta đi thôi, Tiểu Hoàng,” cô đứng lên, mà Tiểu Hoàng lại kêu một tiếng trả lời cô, và không ngừng chạy theo phía sau.

Đường Mặc Vũ đột nhiên xoay người.

“Mặc Vũ sao vậy?” Đỗ Tâm Ái kỳ quái nhìn anh một cái, rồi cũng dừng lại theo.

“Anh hình như vừa nghe thấy tiếng Tiểu Hoàng,” Đường Mặc Vũ híp hai mắt để chăm chú lắng nghe.

“Mặc Vũ, Tiểu Hoàng bị mất rồi. Nếu anh muốn thì giờ chúng ta có thể đi mua một con chó khác.” Đỗ Tâm Ái không vui chu đôi môi hồng. Có mỗi con chó mà cả ngày anh ta cứ thất hồn lạc phách. Nếu có một ngày cô cũng biến mất không biết anh ta có lo lắng như vậy không.

“Không cần,” Đường Mặc Vũ nhẹ nhàng nhắm mắt lại. Anh chính là muốn tự chăm sóc Tiểu Hoàng. Bởi vì nó là thứ duy nhất Lạc Tuyết để lại. Nhưng giờ Lạc Tuyết mất rồi, Tiểu Hoàng cũng không còn. Anh thực sự nghi ngờ liệu những chuyện đó có phải đã thực sự xảy ra hay không? Anh có thực sự biến thành một đứa bé rồi gặp được Lạc Tuyết hay không? Nhưng Lạc Tuyết cũng đã chết rồi.

Anh cúi đầu xem người phụ nữ trước mặt. Tuy cô ta giống Lạc Tuyết, cũng có một đôi mắt một mí, nhưng nhìn thế nào cũng không phải Lạc Tuyết. Trên đời này, lấy đâu ra một Lạc Tuyết thứ hai bây giờ. Cũng sẽ không có ai giống Lạc Tuyết yêu thương anh hơn cả bản thân mình.

“Mặc Vũ, chúng ta còn phải đi thử áo cưới rồi chụp ảnh cưới hôm nay mà. Nếu còn đứng ở đây thì sẽ không kịp đâu.” Đỗ Tâm Ái giữ chặt tay anh, không muốn anh tiếp tục nghĩ nhiều về con chó kia. Cô ta chính là vợ tương lai của anh nên sẽ không chấp nhận việc có con chó đó chiếm vị trí quan trọng hơn cô ta.

“Ừ.” Đường Mặc Vũ khẽ gật đầu, cùng cô ta bước về phía trước. Có lẽ anh cũng nên quên đi. Đằng nào thì anh cũng sắp kết hôn rồi.

Đúng lúc đó anh lại nghe được tiếng chó con kêu ư ử, càng lúc càng rõ giống như con chó đó ở ngay gần đây thôi. Không sai, chính là tiếng Tiểu Hoàng. Mà ngay cả Đỗ Tâm Ái cũng đều khẩn trương khi nghe thấy tiếng kêu đó. Tiếng kêu đúng là giống với con chó kia. Chẳng lẽ nó lại trở lại ư?

Đường Mặc Vũ buông tay Đỗ Tâm Ái, bước về hướng phát ra tiếng kêu.

“Mặc Vũ, Mặc Vũ,” Đỗ Tâm Ái tức tối dậm chân rồi cũng bước theo.

Gạt mở đám người, anh đứng ở một bên nhìn một cô gái đang nhặt rác. Cô đem một cái rồi một cái chai bỏ vào cái túi rác ở đằng sau người. Mà đi ở bên cạnh cô chính là Tiểu Hoàng.

“Lạc Tuyết.” Trong lòng anh đột nhiên chấn động. Anh có cảm giác không nói nên lời, giống như là có cái gì chạm vào trái tim mình.

Mặt trời lặn xuống, cô gái kia có mái tóc ngắn ngủn và thân thể gầy gò cũng vác trên vai một cái túi to giống hệt Lạc Tuyết mà anh biết.

Nhưng khi cô gái kia quay mặt lại thì anh giống như bị dội một thùng nước lạnh. Ánh mắt anh lóe lên, nhìn thẳng vào gương mặt anh vô cùng quen thuộc kia.

Lý Ngôn Hi, cô ta thế mà đã ra tù rồi. Anh cảm thấy như vừa rơi từ thiên đường xuống địa ngục. Nắm chặt bàn tay, anh không ngừng tự kiềm chế bản thân. Được lắm, cô ta ra tù rồi cũng làm cái công việc trước kia Lạc Tuyết làm. Lý nhị tiểu thư quen sống an nhàn thế mà lại trở thành một kẻ đi nhặt rác. Đây chính là báo ứng đối với cô ta.

Lạc Tuyết cảm giác có người đang nhìn cô chằm chằm. Cô ngẩng đầu lên liền nhìn thấy một đôi mắt lạnh lùng. Thân thể cô hơi run run một chút, chân cũng không tự chủ mà lui về phía sau một bước. Cho tới bây giờ cô cũng không nghĩ đến sẽ gặp lại anh trong hoàn cảnh này.

Cô chật vật xoay mặt, không muốn nhìn đến hận thù, hèn mọn còn có khinh thường trong mắt anh.

“Mặc Vũ,” Đỗ Tâm Ái đuổi đến, gắt gao lôi kéo cánh tay của Đường Mặc Vũ. Khi cô ta nhìn thấy cô gái kia liền thấy như bị kim đâm đau nhói.

Là cô ta, còn có con chó nhỏ kia đều khiến cô không khỏi sợ hãi, run rẩy. Đỗ Tâm Ái sợ Đường Mặc Vũ biết chính mình đem vứt con chó đó đi.

Cô ta bất an nhìn chằm chằm cô gái trước mặt, không ngừng ngầm cảnh cáo nếu cô gái đó dám nói lời nào thì sẽ bị ăn tát ngay.

Đường Mặc Vũ cúi đầu nhìn con chó nhỏ đi theo bên người Lạc Tuyết.

“Tiểu Hoàng lại đây.” Anh ngồi xổm xuống rồi hướng con chó nhỏ vươn tay. Con chó nhỏ nhìn nhìn Lạc Tuyết, rồi lại nhìn nhìn anh, cuối cùng cũng chạy tới liếm ngón tay anh, đuôi cũng không ngừng phe phẩy.

“Tiểu Hoàng, chúng ta đi thôi.” Anh ôm lấy con chó nhỏ từ trên mặt đất. Từ đầu tới cuối anh không nói với Lạc Tuyết câu nào. Nhưng con chó nhỏ lại dùng sức giãy dụa. Đường Mặc Vũ nhẹ buông tay, con chó nhỏ liền nhảy xuống đất rồi nhanh chóng chạy tới bên cạnh Lạc Tuyết.

Lạc Tuyết đột nhiên thấy đau lòng. Cô buông bao đồ to ở trên vai xuống rồi ôm lấy con chó nhỏ mà vỗ về.

“Em đi theo ta làm gì. Ta cũng chẳng cho em cái gì. Em đi theo anh ta sẽ có thịt để ăn, được ở nhà lớn, còn có quần áo mặc. Nếu em đi theo ta thì cái gì cũng không có?”

Cô ôm con chó nhỏ đi đến chỗ Đường Mặc Vũ. Đỗ Tâm Ái ở bên cạnh không ngừng trừng mắt nhìn cô.

Cô đứng cách Đường Mặc Vũ một thước rồi đem hai bàn tay ôm con chó nhỏ giơ ra.

“Anh mang nó về đi.”

Đôi bàn tay kia đều đen, móng tay cáu bẩn giống khuôn mặt nhem nhuốc của cô. Màu da cô phơi nắng cũng không còn trắng như trước. Cô khẽ chớp lông mi, tựa hồ có cái gì trực trào ra từ trong mắt. Một lúc sau cô mới bình tĩnh lại được.

Đường Mặc Vũ không hề động đậy, mà trên mặt cũng không có biểu cảm. Anh nhìn đôi bàn tay của cô gái trước mặt đang ôm con chó nhỏ rồi xoay người.

“Chúng ta đi thôi.” Anh không nhận lại con chó nhỏ bởi vì chỉ cần biết nó đang sống tốt là được. Có lẽ nó vẫn thích giống trước kia hơn, như vậy sẽ tự do tự tại.

“Thật là bẩn.” Đỗ Tâm Ái lấy tay phẩy phẩy trước mặt, vẻ mặt khinh thường. Cái đứa con gái này tốt nhất mau đem con chó đó mang đi. Đã bảo không cần rồi còn đem nó trả lại làm gì. Con chó đi theo đứa con gái đó không biết cả người bẩn đến thế nào rồi.

Vợ cóc của hoàng tử ếch – Quyển 3 – Chương 25

Chương 25: Tiểu Hoàng, chúng ta về nhà đi

Cô ta nhìn ra phía ngoài cửa sổ, môi đỏ mọng nhẹ nhàng nhếch lên – tìm đi, các ngươi chắc chắn không tìm thấy. Cái con chó đáng ghét kia sớm sẽ thành chó hoang thôi.

Cùng lúc đó có một chiếc xe chạy nhanh trên đường. Ánh mắt Đường Mặc Vũ luôn luôn nhìn về phía trước, hơi híp lại nên có cảm giác lạnh lùng hơn người bình thường ba phần.

Lúc xe chạy vụt qua tạo ra một cơn gió lớn thổi rối mái tóc ngắn ngủn của một cô gái bên vệ đường. Cô ngồi trên bậc thềm, bên cạnh còn có một con chó nhỏ không ngừng vẫy đuôi.

Cô lôi từ trong túi tiền của mình ra một cái bánh. Cô ăn một nửa, còn một nửa cho con chó nhỏ ăn. Con chó ăn rất nhanh sau đó không ngừng kêu lên với Lạc Tuyết.

“Tiểu Hoàng, chúng ta về nhà đi. Về nhà của chính mình,” cô đứng lên, cõng trên lưng một cái túi to. Chỉ cần bán chỗ này cô sẽ có tiền tiêu, cũng không sợ đói bụng nữa. Con chó nhỏ kêu lên một tiếng, nhấc móng vuốt nhỏ đi theo phía sau Lạc Tuyết.

Chó sẽ không chê chủ nghèo a.

“Lạc Tuyết đã về. Tiểu Hoàng cũng đã về. Nếu Tiểu Vũ cũng về nữa thì chúng ta lại là một gia đình hoàn chỉnh.” Lạc Tuyết ngồi ở cửa, đưa tay bẻ bánh thành từng miếng đút cho con chó nhỏ ăn.

“Ôi, Ngôn Hi. Tiểu Hoàng sao lại trở lại rồi?” Lưu Thẩm thấy kỳ quái liền ngồi xổm xuống đùa với con chó nhỏ đang gặm bánh ăn đến quên trời đất. Con chó này là mọi người thấy từ nhỏ đến giờ. Lúc trước người ta đem nó đi, không biết sao giờ lại quay lại.

“Người nhà kia không cần Tiểu Hoàng nữa, lại đem vứt nó ở góc đường cho nên cháu đem nó về.” Lạc Tuyết đặt tay lên đầu con chó nhỏ vỗ nhè nhẹ. Mà con chó cũng liếm ngón tay cô kêu lên một tiếng.

“Ngôn Hi, sao cháu biết tên nó là Tiểu Hoàng?” Lưu Thẩm có chút ngoài ý muốn. Lạc Tuyết là người nhặt rác, cô gái này cũng vậy. Lạc Tuyết luôn luôn thật thà, cô cũng thế. Lạc Tuyết sẽ đem đồ ăn của bản thân chia cho con chó nhỏ, mà cô cũng đang làm y như vậy. Thậm chí, cô còn biết tên của Tiểu Hoàng. Chuyện này cũng quá kỳ lạ đi.

“Lưu Thẩm vừa mới nói nó gọi là Tiểu Hoàng mà.” Lạc Tuyết nhẹ nhàng cười với Lưu Thẩm sau đó đứng lên. So với việc nói cô chính là Lạc Tuyết thì nói như vậy sẽ khiến người ta dễ dàng chấp nhận hơn. Nếu không cô cũng không biết Lưu Thẩm có xem cô là quái vật không.

“À ra vậy, ta quên mất. Hình như đúng thế thật.” Lưu Thẩm tự lẩm bẩm lầu bầu một lúc, “Ta bảo này Ngôn Hi,” bà vốn đang định hỏi vài điều nhưng lại thấy Lí Ngôn Hi có vẻ vội nên cuối cùng cũng không nói gì thêm nữa.

Lạc Tuyết nâng trên tay một gói đồ to. Những món này là cô phải tiết kiệm rất lâu mới mua được. Cô lại một lần nữa tới trước cửa nhà giam, có cảm giác cô đã rời chỗ này lâu rồi nhưng trên thực tế mới có vài ngày mà thôi.

“Nhạc Nhạc, mình đến thăm cậu đây. Về sau, cậu sẽ không phải không có người đến thăm nữa. Cậu có mình rồi.”

“Ngôn Hi, Ngôn Hi,” Dương Nhạc từ lúc đi ra đều không ngừng gọi tên cô. “Mình biết là cậu sẽ đến thăm mình mà. Ngôn Hi, cậu thật sự là nghĩa khí, nếu không thì mình ở đây sẽ mãi chẳng có ai đến thăm. Thật tốt, về sau xem ai còn dám nói mình không có người thân nữa.” Dương Nhạc lau một chút nước mắt vì quá kích động mà không kìm được.

Lạc Tuyết chỉ cười, “Chúng ta đâu phải bạn bè mà là tỉ muội mà.” Dương Nhạc ngượng ngùng cười, “Mình vui quá nên quên mất.”

Lạc Tuyết ngồi xuống, đem những thứ bản thân mang tới đặt ở trên bàn.

“Nhạc Nhạc, đây là mình mang đến cho cậu. Nếu cậu cải tạo tốt là rất nhanh có thể ra ngoài rồi.” Cô an ủi Dương Nhạc, chỉ sợ cô ấy ở trong lao cảm thấy cô đơn.

Dương Nhạc nghe xong không ngừng gật đầu, “Mình biết, hiện tại mình biểu hiện tốt lắm. Đương nhiên mình cũng sẽ kiểm soát tính tình của mình. Mình sẽ nghe lời, bọn họ nói sao mình sẽ nghe vậy. Mình sẽ kiên trì đến khi ra tù sẽ đến tìm cậu.” Cô nắm chặt tay Lạc Tuyết. Kỳ thực Lạc Tuyết đi rồi, cô cũng cảm thấy cô đơn. Thế nhưng đây cũng là chuyện tốt vì ít nhất có một người được tự do mà không phải là cả hai người cùng bị giam. “Ngôn Hi, nói cho mình biết hiện giờ cậu đang làm việc gì?” Cô dùng mũi ngửi một chút rồi lại kéo tay Lạc Tuyết nhìn. Trên tay cô có chút trầy da, làn da vốn trắng nõn cũng bị phơi nắng đen đi nhiều. Có điều người trông có vẻ rắn chắc hơn trước.

“Mình. . .” Lạc Tuyết có chút khó có thể mở miệng, “Nhạc Nhạc, cậu đừng mắng mình nhé.” Chính cô cảm thấy không có gì, nhưng không biết Dương Nhạc có để ý không.

“Mình làm sao lại phải mắng cậu?” Dương Nhạc liếc mắt một cái. Ngôn Hi hỏi câu này thật kỳ lạ. Cô ấy làm gì mà bị mắng chứ, giờ cô ấy là người lương thiện rồi mà.

“Mình đi nhặt rác,” Lạc Tuyết nói xong, ánh mắt giống như là trăng non, thật sạch sẽ. Tuy rằng cô hiện tại làm công việc mà người khác coi là hạ lưu, bẩn thỉu.

Dương Nhạc sửng sốt một chút, rồi vội quay đầu đi, vội gạt giọt nước mắt. Kỳ thực cô có thể tưởng tượng được sau khi ra tù, bọn cô không có ai nương tựa lại không có kinh nghiệm làm việc gì thì làm sao có thể tìm được một công việc tốt chứ.

“Chờ mình ra ngoài sẽ cùng cậu đi nhặt rác,” Dương Nhạc thân thiết vỗ bờ vai Ngôn Hi rồi học bộ dáng của cô mà nở nụ cười. Lượm ve chai có cái gì dọa người đâu. Bọn họ cũng không phải làm ăn xin mà là dùng hai tay để tự nuôi bản thân thì có cái gì là hạ lưu đâu.

“Về sau cũng không cần mua mấy thứ này nữa,” Dương Nhạc đem gói đồ đẩy trở về. “Cậu tới thăm mình là tốt rồi. Cậu kiếm tiền cũng không dễ dàng gì,” Dương Nhạc nhíu mày, rất là đau lòng nhìn thấy Ngôn Hi như vậy. Cuộc sống của cô ấy nhìn qua cũng không được tốt lắm mà còn phải để dành tiền mua đồ mang đến thì làm sao Dương Nhạc có thể nhẫn tâm.

“Không sao mà,” Lạc Tuyết lại đem đồ trên bàn đẩy về phía Dương Nhạc. “Nhạc Nhạc, mình không mua được đồ tốt, nhưng những thứ này mình vẫn có thể mua. Hơn nữa một tháng mình mới tới thăm cậu một lần. Trong một tháng đó mình có thể tiết kiệm được rất nhiều tiền. Tin mình đi, mình sẽ chăm sóc tốt bản thân.” Lạc Tuyết đem mấy món đồ để vào trong lòng Dương Nhạc rồi nở một nụ cười như trước, thật ôn nhu giống như mưa xuân dịu dàng mà không lạnh lẽo.

Dương Nhạc ôm chặt gói đồ trong lòng mà thấy muốn khóc. Đợi cô được ra ngoài sẽ cố gắng làm việc để cuộc sống của hai người tốt hơn. cô cũng sẽ không để người khác bắt nạt bọn họ.

Giờ thăm tù đã hết, Lạc Tuyết cầm tay Dương Nhạc “Nhạc Nhạc, mình phải đi về. Cậu yên tâm, tháng sau mình sẽ lại tới thăm cậu.” Cô xem Dương Nhạc bị đưa vào trong mà hốc mắt cũng là hơi hơi đỏ lên.

Nhạc Nhạc, cậu nhất định phải cải tạo thật tốt. Tuy rằng cuộc sống bên ngoài thật vất vả nhưng còn có tự do.

Cô bước ra ngoài, cảm thụ ánh mặt trời chiếu lên mặt để lại bóng trên sườn mặt thật là xinh đẹp.

“Cố lên Lạc Tuyết, ngươi hiện tại có một đôi chân lành lặn. Ngươi có thể làm được rất nhiều chuyện, đi được nhiều đường cũng có thể kiếm nhiều tiền. Cho dù bộ dạng bên ngoài có thay đổi cũng không sao. Chỉ cần ngươi vẫn là Lạc Tuyết trước đây là tốt rồi.”

Cô tiếp tục đi về phía trước. Khi mặt trời lặn xuống, cô lại đi nhặt những thứ người ta bỏ đi. Tiền của cô là phải vất vả kiếm từng đồng nhưng cô sẽ chăm sóc tốt cho bản thân.

Cô hiện tại cũng sẽ ăn trứng gà, giống trước đây ở cùng với Tiểu Vũ.

Cô lau mồ hôi trên mặt, tầm mắt mông lung mơ hồ nhòe nước.

Vợ cóc của hoàng tử ếch – Quyển 3 – Chương 24

Chương 24: Tiểu Hoàng biến mất

“Chúc mừng anh.” Hai cánh môi Lạc Tuyết hơi hơi giật, trong mắt thoáng qua một tia chua sót. Cô nâng cái gói to lên lưng và xoay người rời đi, từng bước một rời khỏi nơi này. Cô nhớ rõ lần đầu tiên nhìn thấy anh ta lúc đó anh ta cũng chuẩn bị kết hôn. Lần thứ hai này anh ta cũng đang chuẩn bị kết hôn.

Cô không hận anh ta. Cho tới bây giờ cũng không hận, cũng không muốn hỏi vì sao anh ta lại vì Lạc Tuyết mà báo thù. Chắc anh ta có lòng tốt thôi bởi vì cho đến giờ bọn họ cũng chưa từng gặp mặt nhau. Thế nên anh ta không có khả năng thích Lạc Tuyết. Mà bọn họ, vĩnh viễn là người của hai thế giới.

 

Cùng lúc đó, trong một cái góc khuất khác, một con chó bị một người phụ nữ vứt bỏ.

Tiểu Hoàng là một con chó mập mạp, tuy rằng bề ngoài không đẹp mắt, nhưng lại thập phần đáng yêu. Trên người nó còn mặc một kiện quần áo dành cho vật nuôi, đôi mắt thì sáng long lanh, thoạt nhìn rất là thông minh.

Người phụ nữ đi về phía trước một bước thì con chó cũng gắt gao đi theo phía sau cô ta.

“Ngươi cút ngay cho ta,” người phụ nữ đột nhiên quay đầu hét lên với con chó nhỏ. Con chó ủy khuất rụt thân mình nho nhỏ lại như là hiểu được sắc mặt của người khác. Nó chỉ có thể trơ mắt nhìn người phụ nữ đó từng bước rời đi, rồi kêu lên một tiếng, giơ chân nhỏ ra.

Người phụ nữ quay đầu, xem phía sau một cái, môi đỏ mọng nhếch lên.

“Ngươi, con chó đáng chết. Cuối cùng thì cũng vứt được ngươi đi.” Di động của cô ta vang lên. Cô ta vội nhấn nút nhận và kề lên bên tai.

“Mặc Vũ, em đang ở trên đường, rất nhanh sẽ tới nơi. Anh nói cái gì, Tiểu Hoàng biến mất ư?” Cô ta giả bộ hốt hoảng nhưng môi lại vẫn giương cao, “Anh không cần lo lắng, có lẽ nó đang chạy chơi ở chỗ nào. Em trở về sẽ cùng anh đi tìm nó.”

Người bên kia không biết nói cái gì rồi cô ta mới tắt máy và cất bước rời đi.

Con chó nhỏ vẫn ngồi thu lu ở góc tường không ngừng kêu lên, thật đáng thương. Nó lại trở lại thành một con chó hoang không có chủ nhân rồi. Nó chỉ có thể bị bắt nạt, phải bới rác để tìm thức ăn như những con chó hoang khác.

Đúng lúc ấy thì Lạc Tuyết nghe được một loạt tiếng kêu nho nhỏ. Cô buông gói to ở trong tay và đi đến chỗ phát ra âm thanh, ngồi xổm xuống xem một con chó nhỏ ngồi trong góc.

“Tiểu Hoàng?”

Con chó nhỏ mở mắt, vừa nhìn thấy cô thì nó liền đứng lên không ngừng cắn quần áo của cô.

“Ngươi đi lạc ư? Ta nhớ ngươi hiện tại đang sống tốt lắm mà.” Cô đem con chó nhỏ bế lên rồi lại nhìn cái gói to trên mặt đất. Sau khi do dự, cô vác cái gói to lên vai rồi dựa theo trí nhớ tìm đến nơi kia.

Cô đi hơn một giờ thì đến trước cửa Đường gia. Lúc này hai chân cô đã không còn cảm giác gì.

“Không phải sợ, Tiểu Hoàng, ta đưa ngươi về nhà.” Cô ấn chuông cửa, rất nhanh có người mở cửa.

Chỉ có điều khi cô nhìn đến người phụ nữ đứng ở cửa thì hơi giật mình. Bởi vì nhìn cô ta giống với cô của trước kia, làn da trong suốt, đôi môi nhỏ. Có điều cô gái này xinh đẹp hơn cô trước kia.

Nữ nhân kia cũng đánh giá cô từ trên xuống dưới rồi nói “Ở đây không có mấy đồ thừa rác rưởi đâu, mau cút đi.” Cô ta vừa nhanh chóng đuổi người, vừa lấy tay bịt mũi khó chịu vì cái mùi truyền đến từ trên người Lạc Tuyết.

Lạc Tuyết có chút bối rối lui lại phía sau một bước vì sợ làm bẩn chỗ của người ta.

“Thực xin lỗi, tôi đến để trả lại con chó này. Chắc là nó đi lạc.” Lạc Tuyết ôm lấy con chó nhỏ trong lòng, mà con chó nhỏ chỉ kêu lên một tiếng rồi lại càng vùi vào lòng cô.

Khuôn mặt nữ nhân kia đột nhiên biến sắc, “Cô muốn thì đem nó đi đi, xấu như vậy ai mà thèm chứ.” Cô ta nói xong liền đóng cửa lại, bỏ Lạc Tuyết ở ngoài cửa. Nhưng rất nhanh cửa lại mở ra, nữ nhân kia ló ra bộ mặt ghét bỏ nói “Tôi nói cho cô biết, chỗ này là Đường gia. Chỗ này không phải chỗ ai muốn tới thì tới. Mau đem con chó bẩn thỉu đó đi nếu không đừng trách tôi không khách khí”. Cô ta một lần nữa đóng cửa lại.

Con chó nhỏ trong lòng Lạc Tuyết kêu lên đầy ủy khuất.

“Tiểu Hoàng, không sao hết, bọn họ không cần ngươi thì ta cần ngươi. Lạc Tuyết sẽ chăm sóc cho ngươi như trước đây.” Cô đem con nhó nhỏ ôm lấy. Mà con chó nhỏ cũng liếm liếm mặt cô không nháo nữa.

Đỗ Tâm Ái mở cửa nhìn ra bên ngoài. Cuối cùng thì cũng đi rồi, con chó đáng ghét kia vậy mà còn có thể tìm được đường về.

Hừ, cô ta hừ lạnh một tiếng. Mãi mới có cơ hội đem vứt con chó đáng ghét đó đi, làm sao có thể cho nó về. Cô ta cũng không muốn có thêm phiền toái.

 

Đường Mặc Vũ đứng lên cầm lấy chìa khóa xe,

“Mặc Vũ, anh định đi đâu? Sắp ăn cơm rồi mà,” Đỗ Tâm Ái kéo tay Đường Mặc Vũ. Đã muộn thế này, anh ta còn định đi đâu chứ.

“Anh đi tìm Tiểu Hoàng, em cứ ở nhà đi, ở bên ngoài gió lớn lắm,” Đường Mặc Vũ nhẹ nhàng vuốt khuôn mặt của Đỗ Tâm Ái rồi mới đi ra ngoài. Chính anh làm mất Tiểu Hoàng, nếu không tìm về được thì làm sao anh yên tâm được.

Đỗ Tâm Ái còn muốn nói gì đó nhưng Đường Mặc Vũ đã rời đi.

“Dì, chỉ là một con chó thôi mà, chúng ta chỉ cần mua là được, không phải sao?” Đỗ Tâm Ái có chút không đồng ý mà nói với Diệp Nhàn. Làm gì có chuyện một con chó cũng làm mọi người loạn hết cả lên. Đã thế con chó đó còn xấu như vậy.

Diệp Nhàn nhẹ nhàng hít một ngụm đi tới, vỗ vỗ vai Đỗ Tâm Ái.

“Tâm Ái, con không nên trách Tiểu Vũ. Dù chỉ là con chó nhưng nuôi lâu cũng có tình cảm,” Diệp Nhàn nói xong thì cũng cảm thấy buồn. Tiểu Hoàng luôn là do bà chăm sóc, cho ăn, tắm rửa, thậm chí bà còn may áo, quần cho nó. Mà Tiểu Hoàng cũng rất nghe lời khiến cho hàng xóm đều hâm mộ. Thậm chí nó còn từng giúp bà lấy lại ví tiền, cảm tình đều rất sâu đậm, thế nên khi nó biến mất bà và Mặc Vũ đều sốt ruột.

Đường Thượng Nguyên đi ra khỏi phòng, ngồi xuống ghế sô pha, tay xoa nhẹ trán. Gần đây ngày nào cũng họp hành rồi đi công tác khiến ông thấy mệt mỏi.

“Tiểu Hoàng, đưa cho ông tờ báo” ông gọi theo thói quen nhưng đợi nửa ngày cũng không thấy báo đâu.

“Tiểu Hoàng!” ông gọi một tiếng nhưng người đưa báo đến lại không phải là Tiểu Hoàng.

“Không cần gọi. Tiểu Hoàng đi lạc mất rồi, giờ Tiểu Vũ đang đi tìm.” Diệp Nhàn nói xong liền ngồi ở đó.

“Làm sao mà mất được?” Đường Thượng Nguyên ném tờ báo đi, lông mày nhíu chặt lại. Mà Đỗ Tâm Ái bị ngó lơ cũng trưng ra khuôn mặt càng thêm khó coi. May là cô ta đem con chó đó vứt đi, nếu không về sau nó còn chiếm vị trí quan trọng hơn cả cô ta.

Vợ cóc của hoàng tử ếch – Quyển 3 – Chương 23

Chương 23: Còn có người tốt

“Không cần đâu Lưu Thẩm, cháu tìm được chìa khóa rồi,” Lạc Tuyết lấy chìa khóa đang cầm trong tay ra. Cửa vừa mở thì bên trong liền bay ra mùi ẩm mốc, bụi bặm vì lâu không có người ở.

“Làm sao cô biết chìa khóa để ở đâu?” Lưu Thẩm lấy làm lạ. Hơn một năm trước, cảnh sát đã tới và phá mở khóa cửa. Sau này lại có một người đàn ông đến đây làm lại khóa mới để khóa lại. Từ đó đến nay liền không có ai đến mở cửa nhà này nữa.

Mà cô gái xa lạ này khiến bà cảm thấy vô cùng quen thuộc, giống như Lạc Tuyết đang đứng trước mặt bà vậy.

“Là Lạc Tuyết nói với cháu,” Lạc Tuyết nhìn thoáng qua khóa cửa lại thấy là khóa mới. Đến tột cùng là ai biết được thói quen để chìa khóa ở bậu sửa sổ của nàng chứ?

“Vậy cô mau vào đi,” Lưu Thẩm nhìn nhìn nhưng cũng không có nhiều lời liền rời đi làm việc của mình.

“Lưu Thẩm, con trai thẩm có thi đỗ đại học không?”

“Đỗ chứ. Đó là một trường lớn, chúng ta đều rất mừng,” Lưu Thẩm hơi chút kiêu ngạo mà nâng cằm lên.

Nhưng mà ai hỏi vậy nhỉ? Bà quay người lại thấy cô gái đứng ở cửa căn nhà nhỏ kia.

“Cô làm sao mà biết được?” Bà khó hiểu. Sao cô ta lại biết cả chuyện này nhỉ?

“Cháu. .” Lạc Tuyết mím mím môi, cũng không biết phải giải thích như thế nào.

“Ta biết rồi, là Lạc Tuyết nói cho cô nghe phải không,” Lưu Thẩm cũng nở nụ cười, “Con bé hay học viết chữ với con ta. Có những lúc bán đồ kiếm được nhiều tiền chút nó liền mua cho con ta mấy thứ đồ dùng học tập, chỉ tiếc …”

“Vâng, là cô ấy nói với cháu,” Lạc Tuyết rũ mắt để che giấu chút bi thương trong đó.

Cô rõ ràng là Lạc Tuyết nhưng bề ngoài lại không giống trước kia.

Đóng cửa lại, cô tiến vào nhà. Bên trong vẫn y như khi cô rời khỏi, trên chăn phủ dầy một lớp bụi, trên cái bàn thô sơ bày một ít quần áo của đứa nhỏ, còn có bình sữa gì đó. Cô bước qua đem mấy bộ quần áo đó ôm trong lòng, thở dài một tiếng. Trong đôi mắt cô ẩn chứa lệ.

‘Tiểu Vũ, ngươi hứa với mẹ, nhất định phải sống thật tốt.” Cô xoay người, nhìn ngắm căn nhà mình đã ở mười mấy năm.

“Ta đã trở về, các ngươi. . có vui không?”

Cô dứt khoát lau nước mắt, xắn tay áo lên, bắt đầu lau cái bàn và sàn nhà thật sạch sẽ. Trứng gà bị hỏng trong bếp cô cũng bỏ đi. Đến khi trời tối cuối cùng cô cũng làm xong. Cô ngồi trên giường, nhìn ngôi nhà trống vắng, đột nhiên cảm thấy mệt mỏi.

“Tiểu Vũ, mẹ rất là nhớ ngươi. .” Cô co đầu gối rồi ghé cằm gầy yếu lên đó. Người cô gầy đến chỗ nào cũng chỉ thấy xương, nhìn thật đáng thương.

Mà buổi tối hôm nay cô cũng chẳng có gì để ăn cả.

Cốc cốc, ngoài cửa truyền đến những tiếng đập cửa. Cô bước xuống giường, mở cửa, không biết muộn thế này còn ai đến.

Cửa vừa mở, cô thấy Lưu Thẩm đang đứng ở ngoài cửa, trên người vẫn là bộ quần áo dính đầy khói dầu. “Cô xem, tôi thế mà quên mất không hỏi tên cô là gì,” Lưu Thẩm vừa muốn mở miệng mới phát hiện mình không biết tên người ta. Sau này cũng không thể cứ gọi người ta là “này” được.

“Lưu Thẩm, cháu tên là Lí Ngôn Hi, thẩm cứ gọi cháu Ngôn Hi là được rồi, ” Lạc Tuyết đứng ở một bên, nhường Lưu Thẩm tiến vào.

“A, Ngôn Hi a,” Lưu Thẩm cười hiền lành, “Ngươi cũng giống Lạc Tuyết, loáng cái đã dọn cái phòng nhỏ này thật sạch sẽ, ngăn nắp.” Lưu Thẩm đem một cái bát đặt vào trong tay Lạc Tuyết, “Ngôn Hi, cháu ngày đầu tiên đến đây cũng chưa mua cái gì ăn đúng không? Cái này là Lưu Thẩm cố ý làm cho cháu. Chỗ ta cũng không có cái gì tốt, nên chỉ làm được bát mỳ đơn giản này thôi.”

Bát vẫn còn nóng, mà bên trong còn bay ra mùi mì khiến cho Lạc Tuyết không biết phải cảm ơn Lưu Thẩm như thế nào. Cả ngày nay cô chưa có ăn cơm.

“Cám ơn Lưu Thẩm,” cô cầm cái bát bằng hai tay, luyến tiếc không muốn ăn.

“Không cần,” Lưu Thẩm xua tay, “Ta trước kia cũng không quan tâm nhiều đến Lạc Tuyết, giờ nhớ lại liền thấy khổ sở,” Lưu Thẩm nói xong, ánh mắt liền đỏ, “Trước kia nàng hỏi vay tiền, ta cũng không cho nàng vay. Hiện tại ngẫm lại, Lạc Tuyết là một đứa bé ngoan, ta cho nàng mượn tiền thì dù có phải nhịn ăn, nàng cũng sẽ trả lại. Giờ muốn đối xử tốt với nàng thì người đã mất.”

“Cháu yên tâm. Cháu là bạn của Lạc Tuyết nên Lưu Thẩm sẽ đối xử tốt với cháu. Vài người chúng ta ở đây vẫn là dựa vào nhau mà sống.”

“Vâng,” Lạc Tuyết nhẹ nhàng gật đầu, cúi đầu nhìn bát mì trong tay, xót xa khó chịu, “Lưu Thẩm, kỳ thực thẩm không cần tự trách, nàng cũng sẽ không trách thẩm đâu.”

“Ta biết, nàng là một đứa trẻ tốt,” Lưu Thẩm chỉ có thể cười khổ, “Tốt lắm, ăn xong rồi nghỉ ngơi cho tốt sau đó tìm một công việc là có thể nuôi sống bản thân.” Lưu Thẩm vuốt ve tóc mái tóc ngắn của Lạc Tuyết. Đứa bé ngoan như vậy, thật đáng tiếc.

Nhưng Lưu Thẩm không biết rằng người đứng trước mặt bà lúc này chính là Lạc Tuyết.

Đóng cửa xong, Lạc Tuyết lúc này mới ngồi xuống đem bát mì ăn từng miếng.

Từ khóe mắt cô rơi xuống một giọt nước mắt. Cô buông đũa, khóc không thành tiếng, “Lưu Thẩm không biết, Lạc Tuyết thật sự cho tới bây giờ chưa bao giờ trách thẩm, ta biết thẩm có nỗi khó xử, và ta . . Cám ơn thẩm đối với ta tốt như vậy.”

Cô cúi đầu, đem bát đặt ở bên miệng, lúc này mới uống hết nước canh trong bát.

Đến khi trong chén sạch sẽ thì bụng cô cũng no rồi. Cô vừa lòng nằm trên giường nhỏ của mình, nhắm mắt lại. Ngày mai cô sẽ ra ngoài hỏi thăm tin tức của Tiểu Vũ và còn phải kiếm tiền nữa.

 

Trên đường cái, cô cúi đầu đem một cái lon nước ném ra gói to đằng sau lưng. Trên người cô nơi nào cũng là bùn đất, cả mái tóc và khuôn mặt cũng dính bẩn chỗ đen chỗ trắng. Thân thể gầy yếu giống như có thể bị gió thổi ngã bất kỳ lúc nào. Cô bây giờ lại quay trở về làm một người nhặt rác.

Cô ngẩng đầu, ngước nhìn lên TV ở trên tường thì nhìn thấy một người đàn ông. Cô còn nhớ lúc trước cũng đã thấy anh ta. Ánh mắt cô lúc này trở nên mông lung mà trên màn hình, người đàn ông đang ôm lấy cô gái trong lòng, trên mặt là ý cười hạnh phúc.

“Đường tiên sinh, xin hỏi ngài cùng Đỗ tiểu thư sắp kết hôn đúng không? Tôi tin rằng rất nhiều người đều đang mong tin tức của hai vị.” Người chủ trì cầm microphone hỏi người đàn ông tuấn tú bất phàm đứng trong khung hình.

“Đúng vậy,” người đàn ông ôm chặt lấy cô gái trong lòng, trả lời không chút do dự. Mà cô gái được hắn ôm thì cười càng ngọt ngào.

Anh ta là thiếu gia của nhà nào đó, tên là Đường Mặc Vũ. Mà cô gái kia là vị hôn thê của anh ta tên Đỗ Tâm Ái. Sau hai năm đính hôn, hai người rốt cục thì cũng sắp kết hôn.

Vợ cóc của hoàng tử ếch – Hạ Nhiễm Tuyết – Hoàn

Bộ Vợ cóc của hoàng tử ếch Amber đọc lâu rồi nhưng mãi vẫn chưa hoàn. Bên Tuyệt Tình Cốc làm đến chương 6 cuốn 3 thì bỏ tới giờ. Vài bạn khác có làm tiếp trên Wattpad nhưng cũng chưa hoàn. Vậy nên mình quyết định làm tiếp vì cũng còn có chút nữa là hoàn rồi.

MỤC LỤC

Quyển 1   Quyển 2   Quyển 3 (Từ chương 1 – 6)

Quyển 3

Chương 7     Chương 8     Chương 9     Chương 10     Chương 11     Chương 12     Chương 13

Chương 14     Chương 15     Chương 16     Chương 17     Chương 18     Chương 19

Chương 20     Chương 21     Chương 22

Chương 23       Chương 24       Chương 25      Chương 26      Chương 27

Chương 28      Chương 29      Chương 30      Chương 31      Chương 32

Chương 33      Chương 34      Chương 35      Chương 36      Chương 37

Chương 38      Chương 39      Chương 40      Chương 41      Chương 42

Chương 43      Chương 44      Chương 45      Chương 46      Chương 47

Chương 48      Chương 49      Chương 50      Chương 51      Chương 52

Chương 53      Chương 54      Chương 55      Chương 56      Chương 57

Chương 58      Chương 59      Chương 60      Chương 61      Chương 62

Chương 63      Chương 64      Chương 65      Chương 66      Chương 67

                     Chương 68      Chương 69      Chương 70      Chương 71      Chương 72

Chương 73      Chương 74      Chương 75      Chương 76      Chương 77

      Chương 78      Chương 79      Chương 80      Chương 81      Chương 82

Chương 83      Chương 84      Chương 85      Chương 86      PN1

PN2      PN3      PN4

HOÀN

Nếu bạn thích truyện này thì hãy ủng hộ để Amber duy trì trang web nhé:

How Starbucks saved my life

Starbucks đã cứu cuộc đời tôi như thế nào (How Starbucks saved my life) là cuốn sách bán chạy nhất của Micheal Gill và dựa trên cuộc đời có thật của ông này.

Chương 1        Chương 2        Chương 3        Chương 4        Chương 5

Chương 6        Chương 7        Chương 8        Chương 9        Chương 10

Nội dung cuốn sách nói về một Micheal Gill thành công và có quyền lực trong giới quảng cáo. Ông ta sống cả đời thuận lợi từ lúc sinh ra cho đến khi ông ta ở tuổi 50 thì đột nhiên bị đá khỏi công ty.

How starbucks saved my life
How starbucks saved my life

Từ một người có tất cả, Mike phải vật lộn với cuộc sống tài chính và cả cuộc sống tình cảm phức tạp của bản thân. Ở tuổi hơn 60, Mike phải đối mặt với viễn cảnh không đủ tiền nuôi sống bản thân và bị gia đình chối bỏ.

Mike may mắn tìm được một công việc tại một cửa hàng Starbucks và bắt đầu hành trình làm lại từ đầu từ vị trí thấp nhất. Trong suốt quá trình này, ông ta đã nhận ra nhiều bài học quí báu. Ông ta cũng ngẫm nghĩ lại về cuộc sống và cách tư duy trước đây cùng với những quan niệm cố hữu mà bản thân cần thay đổi.

Amber thích cuốn sách này vì nó khá thật và đề cập đến một vấn đề nhức nhối đó là tự do tài chính. Không cần biết một người làm chức vụ cao đến đâu, tài năng và học vấn đến đâu, nếu anh không tỉnh táo và tự hoạch định tương lai cho mình thì đến một ngày nào đó anh cũng sẽ phải ra đường như ai. Amber đọc cuốn này lần đầu tiên khi đang trong giai đoạn khủng hoảng nghề nghiệp. Và mặc dù tác giả viết đôi chỗ khá dài dòng thì về cơ bản bài học đọng lại cũng quá sâu sắc. Amber như thấy được tương lai của nhiều người trong Michael Gill.

Mike có được thứ dũng cảm mà ít ai có được đó là sự dũng cảm bỏ qua mặt mũi, chịu cúi đầu và chấp nhận làm những việc trước đây mình chưa bao giờ làm. Nhưng sự dũng cảm này lại đến từ những khủng hoảng và thất bại trong đời. Ông ta phải trải qua nhiều đau khổ và dằn vặt mới có được sự can đảm ấy. Thế mới nói kẻ nhìn xa mới là kẻ thành công. Bạn có thể tận hưởng cuộc sống hiện tại nhưng cũng nên chuẩn bị cho mọi khả năng trong tương lai. Và bạn chỉ thật sự an tâm khi bạn độc lập về mọi mặt, nhất là tài chính. Độc lập ở đây là sự độc lập khỏi gia đình, người thân, bạn bè và cả công việc. Độc lập ở đây có nghĩa là bạn có thể không cần những điều đó vẫn có thể sống đàng hoàng được.

Xin hết!

Starbucks đã cứu cuộc đời tôi như thế nào – Chương 4

Chương 4: Ở nơi tiền tuyến – sẵn sàng hay chưa?

“Hãy đề nỗi buồn của bạn ra đi, từ bỏ sự giằng xé, đi theo sự điên rồ và cất cánh … hãy cất cánh.”

THÁNG SÁU

Trong những tuần tiếp theo khi mà đang vội vã di chuyển qua ga Grand Central để bắt chuyến tàu đi tới phía Tây để lại tiếp tục bắt tàu điện ngầm đi đến cửa hàng ở Broadway, thỉnh thoảng tôi sẽ nhớ đến khoảng thời gian trước kia tôi đã có một đóng góp nho nhỏ để bảo tồn cái sân ga này.

Hai mươi lăm năm trước, tôi đã đứng ở Grand Central với Jackie Kennedy và bố tôi khi họ nói chuyện về kế hoạch cứu nhà ga khỏi bị hư hỏng. Tôi được gọi tham dự vì họ muốn thông qua tôi có được nguồn lực hỗ trợ từ JWT cho việc này – mà không phải tốn đồng nào.

“Đây là một không gian công cộng tuyệt vời nhất ở New York,” bố tôi vừa nói vừa hào hứng chỉ xung quanh ông. “Nó phải được bảo tồn.”

Khi bố tôi già đi, ông trở nên nhiệt tình hơn với việc bảo tồn cái thành phố mà ông yêu mến. Ông thích miêu tả mình như một “kiến trúc sư nửa mùa”, luôn tuyên bố rằng kiến trúc và các tòa nhà là tình yêu đầu của ông ấy mặc dù cái danh xưng ấy và cái cánh tự miêu tả bản thân như vậy đã từng khiến ông gặp rắc rối ở bữa tiệc của Andy Warhol. Viva, một trong những “cô người mẫu” nước ngoài xinh đẹp của Andy khi đó đã bước tới đám người đang vây quanh bố tôi trong bữa tiệc. Cô ấy rất cao và vô cùng xinh đẹp đến nỗi mọi người đều dừng nói chuyện. Với tư thái là trung tâm của sự chú ý, cô ấy bước đến chỗ bố tôi. (Andy thì ngồi trên sàn nhà dựa lưng vào tường và chẳng nói gì như mọi khi.)

“Anh làm nghề gì?” Sinh vật ngoại lai đó hỏi bố tôi.

“Tôi là một kiến trúc sư nửa mùa!” cha tôi đáp lại với cái giọng điệu hào hứng và tư thế tự tin điển hình mà ông thường thể hiện trước đám đông.

“Một con khỉ kiến trúc sư?” Cô ta hỏi lại.

Cả phòng phá ra cười vì lỗi lầm đáng yêu của cô ấy.

Nhưng bố tôi đúng thực sự là một con khỉ trong hội kiến trúc sư – leo trèo với năng lượng tràn đầy ở mỗi công trình kiến trúc mà ông thích trong khi nói tía lia với một niềm yêu thích dễ lây nhiễm về mỗi viên đá và hình chạm khắc của mỗi đường viền.

Lúc đó ông đứng điềm tĩnh trên bậc cầu thang nhìn ra toàn bộ sảnh lớn của sân ga với cánh tay dang rộng như yêu thương ôm trọn những thứ ông nhìn thấy.

“Chúng ta không thể để nơi đẹp đẽ thế này bị xâm phạm bởi những kẻ tham lam và cơ hội,” bố tôi nhấn mạnh với giọng trầm thấp có giai điệu như thể đang nói chuyện với đám đông mặc dù ở đó chỉ có mỗi Jackie và tôi. “Nó xứng đáng được … được sống như một ốc đảo mở xinh đẹp tại cái nơi đông đúc, ồn ã này… một món quà quí của sự chào đón đối với nhiều thế hệ người dân New York mai sau.”

Jackie đứng ở bên cạnh ông với đôi mắt trìu mến. Bố tôi là một nhà văn thành công, người mà bà ấy luôn muốn trở thành. Ngoài ra ông ấy cũng vui tính và là một bảo vật trong các sự kiện xã hội, những phẩm chất mà bà ấy ngưỡng mộ. Tôi không phải nói nhiều nhưng cũng đã có được lời hứa của những người đứng đầu JWT về việc trợ giúp chuyên môn cho dự án này. Jackie quả là một cái tên đầy sức hút với mọi người.

Tôi đã giúp tổ chức một chuyến tàu mà Jackie tham gia cùng với cánh báo chí tới Washington nơi mà Tòa án tối cao sẽ thông qua đạo luật bảo tồn những địa danh lịch sử. Theo sau đó là một buổi tiệc thanh lịch mà tôi đã mời nhiều người nổi tiếng. Không một ai từ chối lời mời đó cả.

Phó Tổng Thống Mondale và vợ, bà Joan, đã vui mừng chào đón Jackie khi bà bước xuống tàu. Chúng tôi tổ chức một buổi chiêu đãi cho bà ấy tại một căn phòng nhỏ xinh đẹp ở ga Washington Union – khách mời toàn thượng nghị sĩ, giới truyền thông và quan trọng nhất là vợ của một vài thẩm phán tại Tòa án tối cao.

(Khi tôi gặp Thẩm phán Potter Stewart ở một sự kiện của hội kín Đầu Lâu & Xương một vài tháng sau đó và cảm ơn ông ấy về quyết định tích cực về vấn đề các địa danh, ông đã nói, “Đừng cảm ơn tôi – cảm ơn vợ tôi ấy. Bà ấy bảo tôi là tôi đừng có mà chống lại Jackie!”)

Jackie đã hoàn thành tốt việc kết nối mọi người trong phòng và khuyến khích mỗi người bà nói chuyện bằng tài năng tuyệt vời.

Khi chúng tôi chứng kiến bà chăm chú nói chuyện với từng người khách trong phòng, cha tôi bình luận rằng, “Bà ấy có một món quà kỳ lạ trong việc kiểm soát hình tượng của chính mình. Bà ấy rất thông minh khi chỉ dùng hình tượng nổi tiếng cho một vài điều mà bà ấy tin tưởng. Rất may, New York là nơi bà ấy thực sự thấy có hứng thú.”

Sức mạnh thuyết phục của Jackie là quá rõ ràng. Bà ấy còn có thời gian nói vài lời với tôi vào cuối sự kiện.

“Michael, cậu đã giúp đỡ rất nhiều.”

Tôi nhướn người về phía trước để nghe bà nói – Jackie nói như thì thầm – và tôi thì bị bọc kín trong sự chú ý của bà. Bà ấy khiến tôi cảm thấy mình là người duy nhất trong phòng. Ngoài đời bà ấy đẹp hơn trên tivi nhiều. Bà ấy nhỏ bé, hoàn hảo, với đôi mắt to dường như có thể hút bạn vào. Bà ấy có một sự quyến rũ khó cưỡng khi nói chuyện trực tiếp mà không máy ghi hình nào có thể nắm bắt được.

“Cảm ơn bà,” tôi nói, lưỡi líu lại như biết bao nhà chính trị chuyên nghiệp và chuyên gia truyền thông khác trước mặc bà ấy.

Jackie rời đi ngay sau đó và bằng cách nào đó bà không khiến tôi cảm thấy sự cấp bách cần phải gặp và cảm ơn những người khác của bà giảm đi chút nào. Thật là trái ngược. Tôi cảm thấy lâng lâng vì những giây phút ngắn ngủi bên cạnh bà và sẽ không bao giờ quên chúng.

Nhưng giờ khi nhìn vào cái đồng hồ mới, to lớn và lấp lánh trên quầy thông tin, và quang cảnh rực rỡ, sáng loáng của Grand Central được khôi phục lại nhờ nỗ lực của Jackie, và nhận ra tôi sẽ bị muộn làm mất. Tôi chạy vội đến bắt chuyến tàu thường vì biết chắc tàu nhanh sẽ chẳng đến lúc người ta cần.

May thay tàu đến nhanh và tôi đến đường số Chín mươi sáu trong sự lắc lư và tiếng bánh xe lửa nghiến ken két trên đường ray.

Người tôi rịn mồ hôi trong cái nắng tháng sáu khi tôi vội đi đến cửa hàng của mình ở số Chín mươi ba và Broadway. Mùa hè có vẻ đến New York sớm, hay là do cảm giác lo lắng nhè nhẹ của tôi khiến nhiệt độ từ vỉa hè của thành phố tăng lên?

Tôi bước nhanh vào cửa hàng, gật đầu chào các Cộng sự mới với một nụ cười nhăn nhó rồi nhanh chóng đi đến phía sau để mặc tạp dề vào. Tôi chấm công ca làm lúc 2 giờ chiều và nhận thấy chỉ vài phút nữa thôi là tôi đã đến muộn. Tôi thực sự rùng mình với ý nghĩ đó. Làm sao mà tôi lại đi tốn thời gian quí báu ở Grand Central ngẫm nghĩ về quá khứ và suýt nữa thì phá hỏng tương lai chứ? Tôi rất giận bản thân mình và tôi hứa rằng lần sau tôi sẽ phải đi sớm hơn.

Ít nghĩ về quá khứ, hãy nghĩ nhiều hơn đến tương lai! Tôi lặp lại điều này với bản thân giống như một câu thần chú và tôi muốn tin tưởng.

Tôi thấy Crystal nhìn lên từ máy tính và nhận ra có lẽ mình đã nói ra mồm câu đó. Tôi bị điên mất thôi! May mắn là cô ấy nhanh chóng quay lại với cái màn hình máy tính.

Lo lắng muốn chứng minh bản thân nhưng tôi vẫn ngần ngại khi phải ra ngoài quầy với các Cộng sự khác. Đã hơn hai tháng và tôi vẫn chưa phải làm nhiệm vụ ở quầy thanh toán. Ý nghĩ đó làm tôi khiếp sợ. Vì thế tôi chỉ đứng ở đó, nơi trung lập ngay ở văn phòng của Crystal và hy vọng được giao thêm công việc cọ rửa vào hôm nay. Tôi hy vọng có thêm một ngày tránh được cái quầy thanh toán đáng ghét đó. Nhưng Crystal dường như chẳng để ý đến tôi, cô ấy đang tập trung vào cái máy tính.

Mái tóc lúc nào cũng đẹp tuyệt của cô ấy rơi trên đầu vai và cô ấy đeo trang sức bằng vàng đắt tiền ở cả hai tay. Tôi đứng đằng sau lưng và cố gắng lôi kéo sự chú ý của cô ấy. Crystal có một khả tập trung hiếm có mặc cho có người đang ở trong văn phòng bé nhỏ đó. Qua vai cô ấy tôi có thể thấy cô ấy đang chuẩn bị một bài thuyết trình.

Tôi không thể cưỡng lại việc muốn giúp đỡ.

“Trước kia tôi đã chuẩn bị rất nhiều bài thuyết trình đấy,” tôi nói với cô ấy. “Có lẽ tôi có thể giúp cô.”

Cô ấy quay lại với biểu cảm cáu kỉnh. Tôi nhận ra rằng với cô ấy tôi là một sự can thiệp không mong muốn trong ngày hôm nay. Có lẽ những lần trước cô ấy đã tử tế với tôi khi tìm cho tôi việc gì đó cần có người hoàn thành để tôi làm. Nhưng rõ ràng là cô ấy đã mất kiên nhẫn và không còn thời gian cho tôi.

“Mike, có lẽ đã đến lúc anh ra ngoài quầy và thử làm vị trí thanh toán nhỉ?”

Miệng tôi há hốc. Không! Đó không phải là phản ứng tôi muốn khi đề nghị giúp đỡ công việc cô ấy đang làm.

“Anh đã thực hành chương trình mô phỏng rồi đúng không?” Crystal tiếp tục. Tôi đúng là đã được học về máy tính nhưng tôi chắc chắn là nó chả giống bất kỳ kinh nghiệm thực tế nào của việc xử lý hàng trăm đô la một lúc trong khi phải gọi to tên đồ uống và cố gắng giao tiếp bằng mắt với khách hàng.

“Đúng vậy…,” tôi do dự nói.

“Tốt.”

“Nhưng Crystal, nói thật, có thể tôi sẽ giúp được cô với bài thuyết trình đó chăng?” tôi gần như là cầu xin được làm một cái gì đó tôi biết làm hơn là bị đưa đi làm cái thứ tôi cảm thấy tôi chắc chắn sẽ chẳng làm nổi.

“Giúp thế nào?” Cô ấy lần nữa lại trở nên cáu kỉnh. “Bài thuyết trình này là về cửa hàng và đánh giá đối với các Cộng sự và việc họ đang làm ăn như thế nào. Thông tin về mức tiêu thụ các loại bánh, cà phê và hạt cà phê, và làm thế nào để quản lý được không gian cửa hàng … chẳng phải những thứ anh biết.”

Cô ấy đang mỉa mai tôi, một điều cô ấy hiếm khi làm. Rồi cô ấy quay trở lại với cái máy tính và rõ ràng là đang cố đuổi tôi đi.

Đến nước này thì tôi không thể để bản thân bị đuổi đi. Tôi sẽ làm mọi thứ để không phải đi ra quầy thu ngân. “Cô đã nghe về KISS chưa?”

“Chưa.” Cô ấy không nhìn tôi và tiếp tục tập trung vào máy tính. “Cái đó thì liên quan quái gì đến thứ mà tôi đang làm chứ? Mike, việc này rất khó, tôi không có …”

“KISS là một thực tế đã qua nghiên cứu về các bài thuyết trình…”

Cô ấy quay người lại. Cái từ “nghiên cứu” luôn kéo được sự chú ý của khách hàng và lần này nó cũng ảnh hưởng tới Crystal. Bất kỳ ý kiến nào cũng đều trở nên thú vị hơn nếu bạn biết nó được hỗ trợ bởi một nghiên cứu khoa học nào đó. Nhưng tôi nhận ra là tôi không muốn trở nên kiêu ngạo với Crystal như những khách hàng trước đây.

“Thật ra thì cũng chẳng có gì to tát,” tôi nói. “KISS nghĩ là ‘Làm đơn giản thôi, đồ ngốc.’ Nghiên cứu cho thấy những bài thuyết trình tốt nhất thường ngắn và đơn giản. Đã bao giờ cô mong muốn một bài thuyết trình dài hơnphức tạp hơn chưa?”

Crystal bật cười.

Phù. Tôi cũng nhận ra được từ kinh nghiệm trước đây rằng nếu khách hàng cười thì tức là khả năng cao họ sẽ thích ý tưởng của bạn. Thỉnh thoảng tôi phải làm mọi cách để có được tiếng cười đó. Có một lần, trong một chiến dịch kinh doanh mới của Sprint, tôi đã có một bước tiếp cận táo bạo. Chúng tôi là đơn vị cuối cùng thuyết trình trong số tám công ty quảng cáo mà họ liên hệ. Tôi biết là họ sẽ mệt. Chúng tôi được hẹn đến lúc ba giờ chiều. Đúng giờ buồn ngủ. Vào thời điểm đó, về mặt sinh học, con người chẳng sẵn sàng cho bất kỳ bài thuyết trình nào chứ đừng nói đến chuyện muốn một họ phải đặt niềm tin vào bạn – một công ty mới – cho chiến dịch quảng cáo hàng triệu đô la của họ. Trong yêu cầu đối với đề xuất, Sprint đã hỏi một câu “Các anh sẽ làm gì nếu ai đó mắc lỗi trong dự án của chúng tôi?”

Chính câu hỏi này đã cho tôi một ý tưởng.

Để bắt đầu bài thuyết trình, tôi nói “Chúng tôi đã trả lời từng câu trong ba mươi ba câu hỏi trong yêu cầu đề xuất của quý vị một cách chi tiết. Chúng tôi sẽ gửi những câu trả lời này để quý vị có thể nghiền ngẫm trong vài ngày tới. Chúng tôi biết mình là công ty trình bày cuối cùng. Và có lẽ các vị đã nghe quá nhiều lời hứa rồi. Vì thế chúng tôi sẽ chỉ đơn giản trả lời vài câu hỏi quan trọng. Chúng tôi sẽ không hứa bất kỳ điều gì. Trong vài phút nữa, chúng tôi sẽ mô tả chính xác những gì sẽ làm để giải quyết vấn đề của các anh.Chúng tôi sẽ trình bày những ý tưởng quảng cáo thực thụ, đã được kiểm chứng trong các nhóm nhỏ và sẵn sàng để đưa vào thực hiện. Chúng tôi sẽ trình bày một kế hoạch truyền thông thực tế có thể giúp tiết kiệm tiền cho các anh”. Tôi dừng lại để nâng cao ảnh hưởng của những gì mình vừa nói. “Nhưng trước tiên chúng tôi muốn trả lời một trong những câu hỏi quan trọng nhất trong bản yêu cầu đề xuất của quý vị: Chúng tôi sẽ làm gì nếu có ai đó mắc lỗi trong dự án của các anh? Câu trả lời của chúng tôi là: Tối hôm qua giám đốc điều hành dự án, Harry Smink, người cũng có mặt ở đây lúc này, đã viết sai tên các anh trong một trong những tài liệu mà chúng tôi gửi đi. Và đây là những gì anh nhận được, Harry.”

Lúc đó tôi lôi ra một khẩu súng ngắn thật sự, không có đạn và bắn anh ta. Viên giám đốc giả vờ ngã xuống. Khách hàng ở đó vô cùng kinh ngạc. Sau đó họ như tỉnh ra và bắt đầu cười to. Kết quả là họ đã rất chăm chú, thậm chí còn sợ bỏ lỡ thứ gì đó trong bài thuyết trình của chúng tôi. Tất nhiên chúng tôi đã giành được đơn hàng đó.

Cười là tốt và tôi rất mừng là bây giờ Crystal cũng đang cười.

“Thế tôi dùng KISS thế nào bây giờ?” cô ấy nói. Cô ấy luôn nhanh chóng nhận ra những cơ hội có thể giúp mình.

Tôi biết mình không có nhiều thời gian.

“Cô có thể thử công thứ ba chữ P”.

Cô ấy nhìn tôi một cách khích lệ như thể đang nói: Tiếp tục đi!

“Con người. Sản phẩm. Lợi ích. Cô có thể nói về những nhân viên cô mới tuyển; về phần sản phẩm thì có thể là việc bán các loại bánh và cà phê; còn lợi ích sẽ là tổng hợp cuối cùng của ba điều trên.”

“Còn cả địa điểm nữa chứ,” Crystal nói, đứng lên để đập tay ăn mừng với tôi. Tôi cũng đáp trả một cách khó khăn và vụng về. Ở JWT chúng tôi chả bao giờ đập tay ăn mừng cả.

Cô ấy quay lại với màn hình máy tính.

“Địa điểm ư?” tôi hỏi.

“Cửa hàng … Chúng ta đã thực hiện vài công tác lau chùi ở đây, và như anh biết đó Mike … tôi cũng muốn nhấn mạnh cả việc đó nữa.”

Biết là ngốc nghếch nhưng tôi không thể ngừng tranh cãi với cô ấy. Chuyên môn của tôi lại khiến tôi có ý nghĩ khác. “Nhưng nghiên cứu chỉ ra rằng con người chỉ có thể nhớ được ba thứ. Sau hàng trăm năm, có ai nhớ được hơn ba trong mười điều răn đâu.”

“Anh nói gì?” Crystal không để ý lắng nghe cho lắm. Tôi thấy thật may mắn và quyết định im lặng. Nhưng sau khi đã đưa ra một lời đề nghị, tôi không thể đừng được việc nói ra điều tiếp theo.

“Những bài phát biểu hay bắt đầu với một hình ảnh hoặc đề nghị độc đáo … thứ gì đó mà người nghe sẽ không bao giờ quên.”

Tôi nhớ về một dự án đổi tên một hãng hàng không mà tôi từng làm. Chẳng có ai trong ban quản lý của hãng Allegheny Airlines muốn đổi tên công ty. Đó là một sự thay đổi tốn kém và con người, ngược lại với những truyền thuyết, không thích bất kỳ sự thay đổi nào. Nhưng tôi ghét cái tên Allegheny và hầu hết các khách hàng cũng vậy. Họ thậm chí còn gọi hãng là Agony Airlines (hãng hàng không hợm hĩnh). Khi tôi gặp chủ tịch của hãng, một người ở tuổi bẩy mươi và yếu ớt thì câu đầu tiên ông ấy hỏi là “Anh thấy cái tên hãng hàng không của tôi như thế nào?”

“Nếu tôi ở vị trí trung lập thì tôi nghĩ ông có thể giữ cái tên cũ, nhưng tôi nghĩ đây không phải là một trò đùa”

Lúc đầu ông ấy không thích ý tưởng này. Sau đó chúng tôi thực hiện một nghiên cứu về việc thay đổi quan niệm về tên và thấy rằng người ta sẵn sàng chờ ba mươi phút để chọn hãng USAir, một hãng chưa ra đời thay vì chọn Allegheny.

Vào một buổi sáng, tôi được yêu cầu trình bày ý tưởng đổi tên cho Chủ tịch và năm trăm nhân viên bán hàng trên toàn quốc của hãng. Đó là một căn phòng lớn, trống trải và là một phần của khu nhà chứa máy bay. Đó thực sự không phải chỗ tốt để nói chuyện.

Tôi bắt đầu với nghiên cứu đã làm. Mọi người đều yên lặng. Tôi có thể cảm thấy mọi người trong phòng vẫn chưa tin điều này.

Nhưng tối hôm trước tôi đã có mua vài đạo cụ. Một cây gậy và một quả bóng chày. Tôi thực ra chưa bao giờ thích bóng chày và đã chơi rất tệ khi còn ở trung học. Đây không phải là một quyết định hợp lý nhưng tôi biết mình phải làm gì đó để đánh thức đám đông này. Họ bị đóng đinh trong lối mòn cũ và thích duy trì hiện trạng.

Tôi lấy cái gậy và nói “Việc đổi tên này sẽ giúp chúng ta đánh bật đối thủ cạnh tranh ra khỏi vòng chiến”.

Tôi tung quả bóng lên và cố gắng đánh một cú thật dài và cao. Mặc dù rất khẩn trương nhưng tôi đã đánh một cú rất mạnh, sượt qua đầu vị chủ tịch. Ông ta ngồi ở hàng đầu tiên của dãy ghế đầy các nhân viên bán hàng của hãng, trải dài đến hàng trăm mét. Lúc đó ông ta trượt khỏi ghế xuống sàn. Quả bóng lao vút đến tận đầu kia của căn phòng và tạo ra một tiếng vang lớn khi nó đập trúng bức tường kim loại.

Trong một khoảnh khắc, mọi thứ tĩnh lặng rồi sau đó cả đội bán hàng đều reo hò đến nhức óc. Tôi đã nghĩ có lẽ họ vui mừng vì được nhìn thấy vị chủ tịch suýt thì bị đánh vào đầu (ông ta không được mọi người ưa). Có lẽ họ quá mệt với việc để thua trong cạnh tranh hết năm này đến năm khác và tôi đã khơi dậy tinh thần hiếu chiến của họ. Dù là điều gì thì quả bóng bay đập vào bức tường phía xa đã làm dậy sóng cảm xúc của cả căn phòng.

Họ đã sẵn sàng để tiến về phía trước.

Và chúng tôi thành công bán được cái tên.

Nhưng rõ ràng chúng tôi không thể làm được điều đó nếu không có quả bóng chày và cây gậy.

“Trước khi cô thực hiện bài thuyết trình bốn chữ P của mình,” tôi nói với Crystal, nhấn mạnh số “bốn” theo ý cô ấy, “liệu có đạo cụ nào mà cô có thể dùng … để họ có thể hiểu được cô là ai? Một thứ gì đó để lại ấn tượng. Nên nhớ rằng khán giả của cô sẽ nghe rất nhiều bài thuyết trình của nhiều cửa hàng.”

Cô ấy nhìn tôi.

Rồi tôi nhìn thấy trong đôi mắt tuyệt đẹp đó lóe lên ý tưởng.

“Thế này thì sao: tôi vẫn giữ một cân cà phê mà tôi từng xay từ bẩy năm trước. Tôi để nó ở nhà như một vật.”

“Vật gì?” tôi hỏi.

“Thì chỉ là một vật để nhớ. Nó rất có ý nghĩa với tôi.”

“Tại sao?”

“Tôi cũng không biết. Có lẽ vì nó là một phần của việc tôi gia nhập Starbucks và cuộc đời tôi rẽ sang hướng khác. Vì vậy tôi đã giữ nó lại. Một cân cà phê Verona đó có ý nghĩa rất lớn với tôi.”

“Tuyệt vời.”

Tôi biết rằng tình yêu của Crystal với cân cà phê đầu tiên cô ấy xay đó sẽ truyền cảm hứng cho khán giả của cô ấy. Nhưng khán giả của cô ấy là ai?

“Cô sẽ trình bày trước những ai?”

“Rất nhiều quản lý quận và những quản lý cửa hàng khác.”

“Hoàn hảo. Hãy bắt đầu bài thuyết trình bằng việc cầm lấy cân cà phê đó và đợi đến khi họ yên lặng. Rồi cô có thể kể cho họ việc nó đã biến đổi cuộc đời cô như thế nào.”

“Nhất trí,” Crystal nói và quay lại với cái máy tính. “Giờ anh hãy ra khu vực quầy thanh toán đi Mike. Joann ở ngoài đó … Cô ấy rất nhẫn nại. Hãy để cô ấy giúp anh làm quen.”

Khỉ thật! Sau tất cả những nỗ lực tránh xa cái quầy thanh toán đó bằng cách giúp Crystal với bài thuyết trình của cô ấy, việc mà tôi khá rành thì tôi vẫn bị buộc phải làm cái công việc liên quan đến tiền đó. Mà tôi biết trước là thể nào tôi cũng làm hỏng.

Tôi lê bước ra phía trước cửa hàng. Rất may lúc đó là thời gian buổi chiều vắng vẻ sau bữa trưa và trước khi bọn trẻ xếp hàng dài để gọi món Frappuchinos.

Có ba máy thanh toán ở sau quầy. Bianca đang đứng ở cái gần với tủ bánh nhất, ở giữa có một cái trống và Joann đang ở cái máy gần quầy lấy đồ uống. Tôi đi qua Bianca để tới cái máy ở giữa.

“Chào Mike,” cô ấy nói.

Lúc đó chẳng có khách nào cả.

Tôi dừng lại, háo hức nắm bắt mọi thời khắc tránh xa cái máy đó.

“Chào Bianca. Cô khỏe không?”

“Tôi ổn.” Bianca có một khuôn mặt nhỏ bé ngọt ngào. Giọng cô ấy rất nhẹ đến nỗi tôi khó lắm mới nghe thấy.

Tôi bước đến chỗ cái máy của mình.

“À Mike đây rồi.”

Joann là một người phụ nữ phốp pháp và thoải mái. Cô ấy lớn tuổi hơn hầu hết các Cộng Sự khác. Cô ấy di chuyển cũng chậm hơn những người khác. Tôi có thể nghe thấy tiếng cô ấy thở khi đến gần tôi, nghe có vẻ không ổn.

“Cô ổn chứ?”

“Ổn mà,” cô ấy nói. “Tôi chỉ thở hơi mạnh chút.”

“Chỉ cần nhấn mạnh lên con số trên màn hình của anh,” cô ấy nói, “rồi kéo ngăn kéo đựng tiền ra và mang nó tới phía sau cửa hàng. Có một cái máy sẽ cân và xác nhận số tiền mặt – trong máy của anh sẽ có 150 đô la. Sau đó mang ngăn kéo lại đây.”

Một cái máy sẽ cân và đếm số tiền! Trái tim tôi nhẹ hẫng vui sướng. Tôi chưa bao giờ biết điều đó. Suýt nữa thì tôi đã khóc vì thấy biết ơn. Đếm tiền xu và tiền giấy có thể khiến tôi mất hàng giờ và tôi chắc chắn sẽ cộng sai. Tôi luôn như thế.

Tôi nắm lấy cái ngăn kéo và đi về phía sau cửa hàng nơi Crystal vẫn đang vùi đầu vào bài thuyết trình nhưng cô ấy nhìn lên và nở nụ cười khi thấy tôi.

“Có một cái máy cân tiền,” Crystal nói và chỉ vào một cái màn hình nhỏ. “Để tiền xu và tiền giấy của anh lên đó và đảm bảo là con số cuối cùng đúng 150 đô la. Anh sẽ phải chịu trách nhiệm cho bất kỳ số tiền thừa hoặc thiếu nào. Và vào cuối mỗi ca, anh không được phép để thừa hoặc thiếu 5 đô la.”

“Nghe có vẻ ổn,” tôi nói mà không nhận ra rằng khi bạn phải xử lý cả ngàn đô thì rất dễ để bị thừa hoặc thiếu vài đô.

Tôi bắt đầu đặt tiền giấy lên cái máy. Nó có kích thước bằng một cuốn sách bìa cứng lớn. Nó có một cái ngăn kim loại ở trên cùng để đặt tiền giấy. Còn tiền xu thì đã được để sẵn trong những ngăn nhỏ trong ngăn kéo và bạn chỉ cần lấy chúng ra rồi cái máy thần kỳ sẽ cân chính xác số tiền. Ví dụ, nếu bạn để một nắm tiền giấy vào thì một cái cửa sổ nhỏ sẽ hiện ra dòng chữ: 85 đô la. Hoặc nếu bạn đặt một ngăn tiền xu nhỏ lấy từ ngăn kéo của bạn lên thì cái máy sẽ đọc được: 0.50 đô la. Cái máy tiếp tục cộng các con số và cuối cùng nó hiện con số tổng đếm và cân được ở một màn hình nhỏ bên dưới ngăn đựng tiền. Tôi chả phải làm phép tình cộng hoặc trừ nào! Và bằng cách đếm và cân số tiền giấy và tiền xu, cái máy đã biến một công việc có thể vô cùng tốn thời gian và sức lao động thành một vấn đề được thực hiện trong một hai phút. Đối với tôi, vào ngày đầu tiên đứng quầy thì cái máy đếm tiền đó đúng là một điều kỳ diệu. Số tiền đếm được rất chính xác, và tôi trở lại quầy một cách tự tin hơn.

“Này Mike,” Crystal gọi với theo tôi.

Tôi dừng lại và quay đầu.

“Bài thuyết trình trông có vẻ tốt lắm. Nhưng tôi phải làm gì với phần kết bây giờ?” Tôi cảm thấy hài lòng khi cô ấy hỏi lời khuyên của tôi, về bất kỳ thứ gì. Bởi vì đó là lần đầu tiên chuyện đó xảy ra giữa Crystal và tôi.

Tôi bước trở lại, vẫn cầm cái ngăn kéo. Tôi dừng lại và đặt cái ngăn kéo xuống bàn.

“Đừng bao giờ để tiền rời khỏi tay anh. Đây là lời khuyên dành cho anh đấy,” Crystal nói với giọng nghiêm túc nhất của cô ấy.

Tôi lại cầm cái ngăn lên.

“Phần kết tốt nhất là tóm tắt lại những gì cô đã nói, Crystal. Một bản tóm tắt nhanh. Tôi vừa mới hướng dẫn cho cô công thức ba chữ P -”

“Bốn chữ P chứ? … Chúng ta đã thêm Địa điểm cùng với Con Người, Sản phẩm và Lợi ích rồi mà.”

“Được.”Tôi cười thầm. Cô ấy đã nắm được mấu chốt và cố ấy nói “Chúng ta”, một dấu hiệu tốt đối với tôi. “Vậy hãy dành một trang cho công thức bốn chữ P rồi một dấu bằng và dòng chữ ‘Thành công của Starbucks'”.

“Thế nghe có vẻ hơi vô cảm,” Crystal nói. Giờ thì cô ấy thành chuyên gia rồi. Tôi rất quen với điều này. Hầu hết các khách hàng quảng cáo cần khoảng 10 phút để nhận ra là họ biết nhiều hơn bạn. Nhưng tôi phải thừa nhận là cô ấy đã nói trúng vấn đề. Starbucks không phải là IBM. Chúng tôi đang bán những ly cà phê tràn đầy tình yêu, một trải nghiệm đầy cảm xúc tích cực chứ không phải những cái máy với sự chuyên nghiệp mang tính khách quan.

“Vậy tất cả những thứ đó bằng với cái gì?” tôi hỏi, có lẽ hơi bảo thủ một chút. Tôi vẫn cố tóm lấy những di tích còn lại của một nhân viên tập đoàn lớn luôn biết anh ta đang làm gì. Ít nhất trong lĩnh vực này tôi vẫn thấy cần phải khoe khoang chút.

Crystal nghĩ một chút rồi đề xuất, “Hay là chúng ta đưa ra công thức bốn chữ P rồi dấu bằng và dòng chữ ‘Trải nghiệm tuyệt vời cho Khách hàng của chúng ta'”.

“Được đấy,” tôi nói và dợm bước rời đi.

“Nhưng anh không thích nó,” Crystal gọi theo.

“Thực ra với tôi thì điều đặc biệt về Starbucks là trải nghiệm tuyệt vời dành cho các Cộng sự. Mỗi một công ty thuộc top 500 của Fortune đều nói họ đặt khách hàng lên trên hết. Chỉ có Starbucks là đặt các Cộng sự của họ lên trên hết.”

Crystal nhìn tôi. Lông mày màu nâu của cô ấy trau lại khi cô ấy nghĩ. Và rồi khuôn mặt cô ấy dãn ra.

“Được, thế này thì sao: chúng ta có dấu bằng và dòng chữ ‘Trải nghiệm tuyệt vời cho các Cộng sự và Khách hàng'”.

“Tốt,” tôi nói và bước đến quầy thanh toán. Tôi thấy mình cần phải rời khỏi đó khi mà mọi thứ đang tốt lên. Crystal hiểu vấn đề; cô ấy đang hoàn tất một bài thuyết trình chuyên nghiệp. Tôi vẫn ghi nhớ câu thần chú của mình: nghĩ ít về quá khứ, nghĩ nhiều về tương lai. Bất kỳ điều gì tôi nói thêm cũng chỉ cho thấy tôi muốn sống nhiều hơn trong quá khứ thay vì tạo dựng một tương lai. Quầy thanh toán đang đợi và tôi cảm thấy Joann sẽ giúp tôi học được việc này.

Thế mà giữa đường tôi lại dừng lại, cái ngăn kéo đựng tiền vẫn ở trên tay.

“Thế này thì sao”, tôi không thể ngăn bản thân mình nói “‘Trải nghiệm tốt nhất cho các Cộng sự và Khách hàng.’ Như thế nghe êm tai hơn.”

” Êm tai … là sao?” Crystal nhăn mày.

“Hay là quên đi,” tôi tiếp tục bước đi.

“Không,” Crystal nói. “Hãy nhớ tôi đã nói về nhân phẩm và sự tôn trọng. Nếu anh có gì muốn nói thì nói đi.” Giọng cô ấy có vẻ không được tích cực cho lắm.

Tôi cảm thấy tôi bị kẹt một chân vào đó rồi. Thật là một tên ngốc đáng ghét, tôi tự nói với bản thân như vậy khi quay mặt lại phía cô ấy.

“Êm tai đơn giản là nghe hay,” tôi nói với cô ấy với giọng áy náy. ” ‘Tốt nhất’ là một từ đồng âm với ‘khách hàng’ … điều này khiến cho câu kết luận nghe có vẻ đáng nhớ hơn. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng con người nhớ các vần điệu dễ dàng hơn. Và điều đó cũng có nghĩa là sau khi xem một loạt các bài thuyết trình, có nhiều khả năng họ sẽ nhớ bài của cô.”

“Được đó,” Crystal nói. “Trải nghiệm tốt nhất cho các Cộng sự và Khách hàng”.

“Và khi cô sử dụng giới từ ‘the’ ở đằng trước như vậy thì nó ám chỉ một lợi ích ưu việt.”

Lạy chúa là Crystal chẳng thèm nghe câu cuối đó.

“Anh đi ra khu thanh toán đi Mike,” cô ấy khích lệ tôi. “Và đảm bảo anh giao tiếp bằng mắt và trò chuyện với khách hàng nhé.”

Tôi đã nghe những lời này trong các video đào tạo, nhưng tôi quan tâm hơn đến việc xử lý tiền nong để làm sao tôi không tự biến mình thành một thằng ngốc.

Rất không may, giờ bọn trẻ đã tan học và bắt đầu đến.

Dù vậy, Joann đã đi về phía tôi và giúp tôi đút cái ngăn kéo lại chỗ cũ.

“Máy tính sẽ cho anh biết chính xác số tiền anh cần trả lại và điều tuyệt vời là khách hàng cũng sẽ nhìn thấy số tiền họ được trả lại nên họ sẽ biết nếu anh tính sai. Anh sẽ ổn thôi, Mike.”

“Nhưng tôi tệ lắm khi xử lý tiền bạc.”

“Hai gã chồng cũ của tôi cũng thế. Nhưng hãy cứ để cái máy làm việc đó.”

Tôi mỉm cười. Thật là một câu thần chú hay.

Một đứa bé bước đến trước mặt tôi để gọi đồ. Thằng bé không hề biết là nó đang đứng trước một gã chưa từng làm việc này trước đây.

“Cháu muốn một cốc Mocha lớn”.

“Mocha cỡ lớn”, tôi gọi to tên đồ uống cho Tawana, một cô gái hấp dẫn nhưng đầy tinh thần chiến đấu đang ở khu pha chế.

“Mocha cỡ lớn,” Tawana hét trả lời để xác nhận cô ấy đã nhớ đúng tên đồ uống.

Tôi nhìn đến màn hình thanh toán. Trên đó có ghi các từ “Lớn” và “Mocha” giống như mô hình đào tạo máy tính. Tôi chạm vào những chữ này bằng đầu ngón tay và cái máy cho ra chính xác giá tiền phải trả.

Đứa bé đưa cho tôi năm đô la.

Trên màn hình có lựa chọn cho năm đô la.

Tôi chạm vào đó.

Ngăn kéo tiền liền mở ra, và màn hình hiển thị đúng số tiền mà tôi cần trả lại cho cậu bé: “2,73 đô”. Tôi lấy tiền lẻ từ ngăn kéo. Đứa bé nhận lấy tiền, đếm và đút vào túi sau đó đi về phía quầy pha chế để đợi lấy đồ uống.

Màn hình của tôi, với kích cỡ của một cái tivi nhỏ khi đó hiển thị dòng chữ: “Đóng ngăn kéo lại.”

Tôi đóng ngăn kéo lại.

Này, tôi tự nói với mình, mày có thể làm việc này!

Rồi khách hàng tiếp theo bước đến. Đó là một cô gái trẻ và đang mang thai.

“Một cốc cà phê Decaf lớn,” cô ấy nói.

Tôi nhấn lên lựa chọn ‘lớn’, nhận tiền, trả tiền thừa, đóng quầy và quay ra để lấy cà phê cho cô ấy. Cà phê mới pha ở ngay phía sau tôi cùng với những chiếc cốc rỗng. Tôi lấy một cốc cà phê và đưa cho cô ấy.

Cô ấy đáp lại bằng một nụ cười thật tươi như thể chúng tôi là bạn bè. “Tên tôi là Rachel. Tôi lại đang mang thai một đứa con nữa. Thế nên tôi cần Decaf để giữ cho mình tỉnh táo. Thật không thể đợi để quay lại với công việc vất vả.”

Tôi đột nhiên nhận ra rằng mọi người có lẽ đang đối xử với tôi theo cái cách mà họ được yêu cầu khi đối xử với các nhân viên phục vụ nhà hàng … Họ muốn tương tác với những người đang phục vụ họ những thứ tốt.

Buổi chiều diễn ra vô cùng suôn sẻ mặc dù khách vẫn ra vào nườm nượp.

Khi màn đêm buông xuống, công việc còn bận rộn hơn, nhưng Joann đã chạy qua giúp tôi vài lần. Khách xếp hàng chờ đợi đang di chuyển thuận lợi, đa số gọi Single Pump Mocha hay Latte cỡ lớn. Tôi cần phải gọi được tên của đồ uống, kích cỡ và bất kể yêu cầu nào khác của khách như: Một cốc Pump Mocha cỡ lớn. Thường thì tôi hay quên mất mà chỉ nói ‘Một Pump Mocha’ mà không có kèm kích cỡ … hoặc tôi chỉ gọi ‘một Latte cỡ lớn’ mà quên mất phải thêm yêu cầu của khách về việc thêm sữa đã tách chất béo. Thỉnh thoảng khách sẽ gọi Single Pump Mocha hoặc họ sẽ gọi đồ uống theo thứ tự ngược lại, bắt đầu từ sữa, rồi si-rô, rồi mới tới kích cỡ và tôi phải lặp lại những gì họ nói cho Tawana. Tawana sẽ sửa lại lời tôi bằng giọng to nhất có thể và gọi tên đồ uống theo đúng thứ tự. Việc này khiến tôi xấu hổ nhưng tôi học được rất nhanh.

Cũng thật may cho tôi là Tawana có một giọng nói thật lớn. Với khối u não đang ảnh hưởng tới khả năng nghe của mình, tôi đã rất lo lắng về việc nghe không đúng các yêu cầu của khách. Nhưng tôi chưa bao giờ để lỡ tiếng gọi đồ to và rõ ràng của Tawana. Và tôi cũng nhận ra rằng, tôi chỉ cần cúi người gần khách hàng hơn thì sẽ có thể nghe họ nói một cách rõ ràng.

“Hãy hỏi nếu anh thắc mắc điều gì,” Joann nói. “Chỉ cần hỏi thôi.”

Và tôi đã làm như vậy. Tôi nhận ra rằng khách hàng cũng không ngần ngại giúp tôi sửa lại cho đúng những yêu cầu của họ.

Khoảng 7 giờ tối hôm đó, tôi đã rất ngạc nhiên khi thấy cửa hàng trở nên vô cùng bận rộn. Tôi đã từng nghĩ cà phê là thứ người ta mua trên đường đi làm nhưng rõ ràng bây giờ nó đã trở thành một thứ được mua trên đường trở về nhà. Tôi thấy một doanh nhân cũng đi vào cửa hàng và gia nhập hàng dài khách đang gọi đồ. Khi tôi còn làm việc ở vị trí cũ, tôi đã làm việc rất chăm chỉ để được một vị khách tiềm năng, ăn mặc đẹp đẽ như người đàn ông đó trả lời cuộc gọi. Giờ thì khách hàng của tôi lại đang đứng thành hàng để đợi tới lượt được phục vụ. Thật nực cười biết bao!

Vị doanh nhân bước lên và nói với tôi, “Double Macchiato.”

Anh ta dùng ngôn ngữ của riêng Starbucks. Tôi đã phải rất vất vả mới hiểu được những từ đó được hiển thị như thế nào trên màn hình thanh toán. Tôi bắt đầu thấy xấu hổ khi liên tiếp bấm vào những nút sai.

“Anh mới làm ở đây phải không?” người đàn ông hỏi. Tôi nhìn anh ta. Liệu anh ta có định méc với Crystal và khiến tôi bị đuổi việc ngay ngày đầu tiên đứng quầy không?

Nhưng anh ta mỉm cười trước bộ dạng hoảng hốt của tôi.

“Không phải lo. Anh sẽ làm được thôi.”

Anh ta thế mà còn giành thời gian động viên tôi. Oa. Tôi nhìn lại màn hình với tâm tình sáng lán, thanh tỉnh. Double Macchiato. Nhấn ‘lớn’ và Macchiato. Thật đơn giản.

Vị doanh nhân đó không phải người duy nhất cố gắng giúp tôi thấy thoải mái.

Một cô gái nói với tôi, “Chào mừng tới nơi đây.”

Một anh chàng khác mặc một chiếc áo hở cúc, nhìn như người hippie thì nói, “Tôi thấy mừng là họ tuyển người già.”

Người già? Thôi được, dù không quá vui với lời nhận xét, tôi vẫn cảm kích thái độ của anh ta. Không thể phủ nhận được là tôi già hơn ít nhất một, hai thế hệ so với các Cộng Sự khác. Thế nên thật tốt khi được chào đón kể cả khi lý do là vì tôi trông già.

Khoảng 8 giờ tối, cửa hàng thậm chí còn bận hơn. Tôi đã không biết người ta coi Starbucks như một phần cuộc sống về đêm của họ. Rất nhiều người trẻ xếp hàng để giành thời gian cùng nhau bên ly Latte.

Tập trung nào, tôi nhắc nhở bản thân mình. Nhấn đúng nút, gọi to yêu cầu, trả đúng tiền thừa và cười nào. Một cô gái trẻ tóc vàng đi đến phía quầy của tôi.

“Một cốc Latte thêm sữa tách béo cỡ lớn,” cô ấy nói.

Tôi máy móc nhấn ‘Latte cỡ lớn’ trên màn hình, gọi tên đồ uống cho Tawana theo đúng thứ tự, nhận đồng năm đô la của cô gái và trả tiền lẻ. Khi tôi ngẩng đầu lên để mỉm cười thì tôi nhận ra đó chính là con gái tôi, Annie! Tôi đã quá tập trung vào việc làm thế nào để không mắc lỗi, đến nỗi không biết là mình đang phục vụ ai.

“Chào bố,” con bé cười. Rõ ràng là nó thấy buồn cười khi tôi không nhận ra nó. Hoặc có thể nó thấy buồn cười khi nhìn thấy tôi mặc một cái tạp dề màu xanh, đội mũ màu đen và làm ở vị trí mà rõ ràng là vượt qua sức tưởng tượng của tôi.

“Annie!” tôi gọi. “Thật tốt được gặp con.”

Tôi bắt đầu thấy máu dồn lên mặt. Tôi đang đứng ở đây, làm công việc chân tay và phục vụ chính con gái mình. Tôi chỉ có thể nghĩ đến những câu từ sáo rỗng … Tôi dường như không suy nghĩ được gì cả. Nhưng rồi tôi nghĩ đến việc Crystal nói về sự tôn trọng, và cố gắng đứng thẳng để thể hiện sự tôn trọng bản thân và con gái mình. Annie có vẻ đã nhận ra là tôi đang phải vật lộn để chào hỏi nó một cách tử tế, và đằng sau thì còn một hàng dài khách đang chờ để được gọi đồ.

Con bé tự tin làm chủ tình thế. “Con sẽ đợi, mấy giờ bố tan làm?”

“Chín giờ … Bố tan làm lúc chín giờ.”

“Vậy con sẽ đợi đến lúc đó,” con bé nói và đi đến khu quầy để lấy đồ uống. Annie trông có vẻ thoải mái ở Starbucks hơn là tôi.

“Mocha không kem, thêm sữa tách béo cỡ lớn”, một cô gái trẻ gọi đồ. Tôi nỗ lực nhấn những nút khác nhau trên màn hình và gọi lớn tên đồ uống cho Tawana. May mắn là Tawana gọi lại đúng theo thứ tự tôi đã nói. Vị khách đó rõ ràng biết rõ phải gọi đồ như thế nào.

Bạn có biết cảm giác khi bạn chơi thể thao hay một hoạt động thể chất nào đó và không thể ngừng được, cũng không thể nghĩ gì được không? Tôi vẫn còn nhớ khi chơi bóng ở cấp ba. Cũng như bây giờ, tôi không nhận ra mình đang làm gì nhưng những nỗ lực, bùn đất, việc xử lý tình huống và sự xô đẩy cứ cuốn tôi theo. Nếu bạn được xem tôi chơi lúc đó, bạn sẽ thấy tôi có thừa cố gắng nhưng chơi cũng chẳng tốt lắm. Có lẽ bây giờ tôi cũng đang làm như vậy. Phần còn lại của buổi tối trôi qua trong mơ màng.

Khi đêm càng sâu, Joann trở về nhà với con. Crystal đi đến phía sau tôi. “Đến giờ rồi, Mike,” cô ấy gọi. “Lấy ngăn kéo tiền của anh ra đi.”

“Kéo niềng răng ra?”

Crystal phá ra cười và nói với Bianca. “Anh ta nói kéo riềng răng của anh ta ra kìa!”

Dù tôi phản đối, nhưng tôi thực sự thích việc họ đang cười nhạo tôi. Ít nhất điều này cho thấy họ thấy thoải mái khi ở cạnh tôi.

Crystal chỉ cho tôi cách kiểm đếm số tiền.

“Số tiền ‘dư’ của anh sẽ bằng tổng số tiền có trong khay trừ đi 150 đô la. Đừng lo, cái máy sẽ cho anh biết chính xác con số.”

Và cái máy đã làm như vậy. Trên màn hình máy tính cũng hiện lên sai số là 4,5 đô la.

“Lần đầu thế này là không tệ rồi,” Crystal nói. “Như tôi đã nói, anh được phép có sai số từ 5 đô la trở xuống … nhưng hầu hết các Cộng Sự khác chỉ nhầm vài xu thôi. Rồi anh sẽ làm làm được.”

Cô ấy có bị chập mạch không? Cô ấy đâu biết là mình đang nói chuyện với một thằng ngu về tài chính. Nhưng tôi thấy thật may phước là tôi đã vượt qua được trải nghiệm tồi tệ này. Tôi chả thích thú gì cái quầy đó cả nhưng lại khá ngạc nhiên vì mình đã cảm thấy rất vui vì được tiếp xúc với những vị khách háo hức được gọi đồ từ tôi.

“Anh đã làm tốt, Mike,” Crystal nói trong khi xem xét cái khay tiền của tôi. “Nhưng hãy cố gọi đúng tên các loại đồ uống. Tôi cũng đã quan sát và thấy anh thường giao tiếp bằng mắt với khách nhưng hiếm khi nói gì với họ. Tôi hiểu là anh cũng chả có nhiều thời gian khi mà khách chờ thành hàng dài nhưng khi có thời gian thì anh nên cố nói vài lời. Rất nhiều người đến Starbucks để cảm thấy tốt hơn … Một phần công việc của chúng ta là khiến họ thấy tốt hơn.”

“Chắc chắn rồi,” tôi nói, cảm thấy may mắn khi không tính sai đến hàng trăm đô la.

Crystal nhìn đồng hồ.

“Tôi phải đi đây,” cô ấy nói và với lấy một cái áo khoác da đẹp đẽ. “Nhớ chấm công, Mike,” cô ấy gọi với lại khi đang đi ra cửa.

Tôi để ý thấy một chiếc Corvette đang đỗ ở bên ngoài và rõ ràng là đang đợi cô ấy. Crystal là một người rất thu hút. Tôi thấy cô ấy dừng lại để nói chuyện với một vài người khách. Dù có người đang đợi, cô ấy vẫn ưu tiên công việc trước.

Tôi chấm công trên cái mính tính của cô ấy lúc … 9 giờ 5 phút. Tôi đã làm bẩy tiếng. Chân tôi đau ê ẩm, đầu thì vẫn quay vòng vòng.

Rồi tôi nhớ ra: Annie! Con bé vẫn đang đợi tôi. Tôi nhanh chóng cởi bỏ cái tạp dề và đi về phía trước quán.

Tôi thấy con bé ở trong một góc, tại một cái bàn nhỏ và đang đọc sách.

“Chào Annie.”

“Bố!” Con bé đứng dậy và ôm tôi thật chặt.

Tôi cảm thấy tốt hơn nhiều.

“Con có muốn một cốc Latte nữa không?” tôi hỏi.

“Không cần đâu,” con bé cười, “đi thôi … cũng muộn rồi bố.”

Annie biết tôi thường muốn đi ngủ sớm. Tôi thích làm một con chim sơn ca hơn là một con cú, và trong quãng thời gian trưởng thành, Annie và tôi thường cùng nhau thưởng thức buổi sáng. Khi con bé được hai hay ba tuổi gì đó, chúng tôi thường đi dạo xuống cái hồ ở Connecticut trong không khí bình minh trong lành của những ngày hè. Tôi thường chơi té nước với con bé ở những chỗ cạn và ngắm mặt trời hiện lên sau những rặng cây lá kim. Rồi chúng tôi sẽ đi về nhà và cùng ăn ngũ cốc trong khi đợi những người khác thức dậy.

Chúng tôi đi ra cửa và Annie bám lấy tay tôi. Điều đó làm tôi thấy tốt hơn.

Qua khóe mắt, tôi thấy Crystal vẫn đang trò chuyện với khách. Thật đáng kinh ngạc.

“Chúng ta sẽ đi tàu đến Quảng trường Thời đại,” Annie giành quyền quyết định, “sau đó chúng ta đi xe buýt tới Grand Central và con có thể đi tàu về Brooklyn từ đó. Và bố có thể đi tàu về Bronxville.”

Annie đã có hết kế hoạch trong đầu. Nó là người chăm chỉ và là một sinh viên xuất sắc tốt nghiệp trường Phi Beta Kappa nhưng lại chọn làm một diễn viên. Và nó đã mang tất cả khả năng tổ chức tích cực của mình phục vụ nghề nghiệp.

Khi chúng tôi đón chuyến tàu tròng trành về khu trung tâm, chúng tôi đã nói chuyện trong tiếng ồn ào.

“Con muốn xem có phải bố thật sự đang làm ở Starbucks hay không,” Annie giải thích. Tôi đã nói với mẹ con bé và để lại lời nhắn cho Annie là tôi đang làm việc tại cửa hàng ở Broadway nhưng cũng đề nghị mọi người đợi một thời gian đến khi tôi thực sự làm tốt công việc. Dĩ nhiên con bé đã không đợi.

Annie được sinh ra với cái gen không thích chờ đợi. Tôi vẫn còn nhớ khi nó được ba tuổi đã nói với tôi “Con muốn cưỡi ngựa.”

“Được thôi,” tôi nói. “Một ngày nào đó khi con có thể.”

“Bây giờ cơ.”

“Nhưng con còn bé quá.”

Annie là một cô gái nhỏ ưa vận động … nhưng trong mắt tôi thì vẫn còn quá bé để xử lý một con vật to lớn nguy hiểm như ngựa.

“Làm ơn đi mà,” con bé nói, và lặp lại nhiều đến nỗi cuối cùng tôi cũng quyết định phải cho con bé thấy rằng cưỡi ngựa là vấn đề mà những cô bé ở tuổi nó không nên bàn đến.

Tôi đưa con bé đến một trường dạy cưỡi ngựa và để người chủ nói chuyện với nó. Chúng tôi ngồi trong văn phòng của ông ấy. Ông ấy ngồi đằng sau một cái bàn lớn và trông có vẻ áp đặt. Annie thì lại không có vẻ ngạc nhiên.

“Cháu muốn cưỡi ngựa,” con bé nói, tuột khỏi lòng tôi và đến đứng trước mặt ông ấy. Con bé luôn đứng rất thẳng.

“Xin lỗi, cô gái nhỏ,” ông ấy nói. “Chúng tôi không nhận bất kỳ ai dưới năm tuổi.”

Annie nhìn ông ta một lúc và sau đó lặp lại yêu cầu của mình, to rõ hơn. Cùng với sự kiên trì của Annie thì con bé lại khá nóng nảy. Con bé có khuôn mặt làm tôi nhớ đến những bức ảnh cũ của Nữ hoàng Victoria: khá mũm mĩm nhưng khóe miệng lại trễ xuống theo kiểu “tôi chả hứng thú gì”. Phải một năm sau khi sinh ra con bé mới nở một nụ cười thật sự mặc cho chúng tôi có nỗ lực đến đâu. Con bé có một nụ cười rất đẹp nhưng biểu hiện thông thường của nó lại thể hiện một sự quyết tâm nghiêm túc.

Người đàn ông rướn người về phía trước.

“Ta rất thích thái độ của cháu,” ông ấy nói, “nhưng ta rất tiếc là cháu còn quá nhỏ.”

“Làm ơn đi mà!” Annie nói. Tôi có thể cảm nhận được là chúng tôi sắp có một trận náo loạn và có lẽ ông ta cũng sẽ tức giận. Annie là vô song trong việc ăn vạ. Con bé có thể ăn vạ long trời nhưng lại ngừng ngay khi có được cái nó muốn. Annie ít hay nhiều đều có ảnh hưởng tới tôi từ khi nó ra đời. Có lẽ người đàn ông này sẽ sớm nhận ra bé gái ba tuổi này quyền lực đến thế nào.

“Ta sẽ chỉ cho cháu ta định làm gì,” ông ấy nói rồi đi vòng qua cái bàn và nắm lấy tay Annie. Con bé là một cô bé dễ thương với mái tóc vàng dầy – khó ai có thể cưỡng lại.

Hai người cùng đi ra khu vực cưỡi ngựa.

Ông ta gọi một người phụ nữ trẻ đang dẫn một con ngựa đi quanh.

“Amanda,” ông ta gọi, “đem Trigger tới. Tôi muốn chỉ cho cô bé này vài điều.”

Có lẽ ông ta hy vọng một con ngựa to lớn tiếp cận chúng tôi sẽ khiến Annie sợ. Tôi thì rất sợ. Tôi chưa bao giờ thích những con ngựa và Trigger nhìn quá to lớn để bất kỳ ai cưỡi.

“Cháu có muốn cưỡi con ngựa đó không, cô bé?” người chủ hỏi với một giọng nhường nhịn.

Annie không nói gì. Con bé chỉ chạy ngay đến và cố leo lên.

Amanda giúp con bé ngồi lên yên và cười. Rõ ràng là Amanda đứng về phía Annie.

“Amanda, từ từ thôi nhé,” người đàn ông to lớn nói. “Con bé chỉ mới ba tuổi.”

“Có vẻ con bé đã sẵn sàng rồi,” Amanda nói và bắt đầu dẫn con ngựa một cách chậm rãi quanh bãi. Amanda đặt dây cương vào tay Annie, mặc dù cô ấy vẫn nắm một đầu.

“Khỉ thật,” người đàn ông lẩm bẩm. Dù vậy tôi vẫn có thể nghe được.

Tôi nhìn ông ta.

“Con bé thật có tinh thần,” ông ta nói. “Thôi được, chúng tôi sẽ nhận con bé. Amanda có thể làm việc này.”

Ông ta quay người và đi về văn phòng, để lại tôi đứng đó nhìn Annie và Amanda đi chậm quanh bãi.

Annie đã thắng. Con bé đã không đợi một cách kiên nhẫn để được cho phép cưỡi ngựa. Vì vậy tôi cũng không ngạc nhiên khi con bé xuất hiện để gặp tôi mặc cho tôi đã đề nghị đừng ai đến cho đến khi tôi làm tốt công việc.

“Con chỉ muốn xem điều này có thật không,” Annie cười.

“Ờ thì nó cũng là một công việc,” tôi tự bào chữa.

“Không, đừng hiểu lầm ý con,” Annie nói. “Con thích việc này. Bố trông tuyệt lắm khi đội cái mũ đen đó.”

Tôi có thể cảm nhận được rằng con bé đang nghiêm túc dù nó có vẻ như đang đùa giỡn. Có lẽ nó thích cái việc là tôi sẵn sàng làm việc chăm chỉ. Và rõ ràng là con bé cũng chẳng bận tâm đến sự thật tôi đang phải đánh vật với công việc.

“Bố vẫn không biết mình đang làm gì nữa,” tôi nói.

“Con biết … trông bố có vẻ thế thật!” con bé cười. Tôi cũng cười. Tôi vẫn rất yêu con bé và tôi thấy thật hối hận.

“Annie,” tôi nói một cách chân thành, “Bố rất xin lỗi vì bố đã phá hỏng cuộc đời mình và cả cuộc sống của con … ”

Giống như tôi đã nhắc nó về một thực tế mà nó đã quên và đột nhiên không khí tốt đẹp dường như tiêu tan. Con bé nói một cách giận dữ, “Con sẽ không bao giờ nghe lời khuyên không ra gì của bố nữa.”

Con tàu đi vào Quảng trường Thời đại, và chúng tôi bước xuống. Annie dẫn đường đến bến xe buýt, nơi chúng tôi đổi xe.

Khi chúng tôi ngồi đợi xe đến để đưa chúng tôi tới Grand Central, tôi phá vỡ sự im lặng. “Bố xin lỗi,” tôi lặp lại.

“Xin lỗi chẳng thay đổi được gì,” Annie nói. Con bé luôn nóng nảy như thế.

Xe buýt toàn là người. Tôi nhường chỗ cho một cụ già đang mang đến năm túi đồ. Annie cũng đứng. Chúng tôi bị dồn ép bởi nhiều người khác.

Annie đang mặc một cái áo khoác rất đẹp và dáng con bé vẫn thẳng dù cho dòng người đông đúc và chiếc xe nghiêng ngả. Con bé trông thật rực rỡ và xinh đẹp – kể cả dưới ánh đèn huỳnh quang yếu ớt. Con bé thật hoàn hảo. Tôi thì nhìn xuống chân mình và ghét bỏ cái ý nghĩ rằng mình đã mất đứa con gái thông minh và chăm chỉ vì những hành động ích kỷ và ngu xuẩn của bản thân.

Chúng tôi ra khỏi Grand Central. Khi đi qua những ngọn đèn ấm áp của quán Oyster Bar, tôi đã rất muốn mời Annie ăn gì đó với mình. Nhưng rồi tôi nhớ ra khoảnh khắc ngồi trong phòng nhân viên kế toán để chốt thuế vào khoảng hai tuần trước.

Lawrence Best đã giúp tôi và rất nhiều nhân viên quảng cáo thành công khác quản lý tiền của họ. Nhưng năm ngoái tôi đã nói rằng tôi không đủ tiền để trả anh ta nữa. Anh ta nói anh ta vẫn muốn giúp tôi. Khi tôi mang hóa đơn thuế đến, tôi mang theo hai phiếu quà tặng của Starbucks cho lũ trẻ nhà anh ấy. Larry đã rất vui mừng khi nhận khoản tiền công ít ỏi này.

“Bọn trẻ nhà tôi sẽ thích cái này lắm,” anh ấy nói. “Chúng không biết tôi làm gì, thật đấy. Nhưng tôi biết chúng thích Starbucks và giờ chúng đang học đại học nên chắc bọn trẻ sẽ dùng đến cái này.”

“Giờ thì xem nào”, anh ấy nói, “nhìn vào bản kê thuế của anh, tôi có thể thấy là anh đã dùng bữa ở Oyster Bar.”

“Đúng vậy, nó nằm trên đường tôi về nhà từ Starbucks.”

“Nhưng,” Larry nói khi rướn người về phía trước, “vấn đề là anh không phải một nhân viên quảng cáo thành đạt kiếm được nhiều tiền nữa. Anh đang làm việc ở Starbucks và kiếm được bao nhiêu? Mười đô một giờ hả? Với số tiền đó thì chả đủ cho anh ăn một con hàu.”

Larry ngồi lại và chỉ vào một cái túi giấy nhỏ trên cái bàn làm việc đầy giấy tờ của anh ấy.

“Đó là bữa trưa của tôi.”

Và tôi hiểu anh ấy muốn nói gì.

Vì thế tôi gạt bỏ ý nghĩ đãi Annie bữa ăn khuya tại Oyster Bar. Nhưng tôi vẫn muốn xin lỗi con bé. Tôi vẫn nhớ việc Crystal nhấn mạnh đến nhân phẩm và sự tôn trọng và có vẻ như tôi chưa từng đối xử với Annie hay bất kỳ đứa con nào của mình bằng nhân phẩm và sự tôn trọng mà chúng đáng có. Tôi là tên ngốc luôn đưa ra lời khuyên khi mà chính cuộc đời tôi cũng đang gặp thất bại.

Tôi dừng bước và nhìn vào đôi mắt xanh của Annie rồi nói: “Bố xin lỗi vì đã hành động như một kẻ ngu ngốc.”

Con bé tiến đến và ôm tôi.

“Có lẽ bố đã rất ngu ngốc nhưng con thích việc bố đang làm tại Starbucks.”

Tôi thấy thật nhẹ nhõm. Annie nóng tính nhưng cũng rất dễ tha thứ để bước tiếp. Tôi từng nói với con bé: “Con giống như một con bão mùa hè vậy.”

“Ý bố là gì?” Annie hỏi.

“Cơn giận của con thật mạnh mẽ nhưng cũng qua nhanh.”

“Nhưng sau những cơn mưa mùa hè đó, không khí thật tuyệt … một cảm giác mọi thứ đều mới mẻ!” Annie trả lời và thắng cuộc tranh luận.

Giờ thì con bé nhìn lên màn hình lớn ghi thông tin các chuyến tàu.

“Con sẽ đi dọc hành lang này để bắt chuyến tàu tới Brooklyn,” con bé nói, “Chuyến tàu tiếp theo của bố tới Bronxville sẽ khởi hành trong bốn phút nữa. Đừng để lỡ nhé.”

Rồi con bé ôm tôi thật chặt và hôn tôi một cái rồi tôi phải chạy vội để bắt kịp chuyến tàu với một trái tim lâng lâng hạnh phúc.

 

Starbucks đã cứu cuộc đời tôi như thế nào – Chương 3

Chương 3: Lời nói thay đổi cuộc đời tôi

“Người đóng vai trò chất xúc tác cho những kẻ mộng mơ chính là người giáo viên và những người khuyến khích mà họ gặp trong cuộc đời mình. Vì thế đây là lời cảm ơn gửi đến những người thầy.”

THÁNG NĂM

Tôi đứng trong ga Bronxville đợi chuyến tàu lúc 7 giờ 22 phút đến New York. Tôi sẽ bắt đầu ca làm việc của mình lúc 10 giờ 30 phút vào sáng hôm đó – nhưng tôi muốn cho bản thân nhiều thời gian hơn cần thiết. Chuyến tàu từ Bronxville đến ga Grand Central phải mất ít nhất ba mươi phút. Chuyến tàu tiếp theo từ Grand Central lại mất thêm mười đến hai mươi phút để tới Quảng trường Thời Đại. Từ đó tôi sẽ bắt một chuyến tốc hành đến ga số Chín mươi sáu khu phía Tây. Từ ga đó tôi chỉ cần đi qua một tòa nhà là đến cửa hàng. Tôi thấy lo lắng. Tôi vẫn chưa quen với hệ thống giao thông công cộng và cũng không muốn bị muộn giờ làm. Tôi không thể gây một lỗi nhỏ nào trong công việc mới này.

Lúc đợi tàu vào buổi sáng tháng Năm đó, tôi đã có cơ hội nhìn xung quanh Bronxville. Khu vực ngoại thành nhỏ bé này đã thay đổi rất nhiều trong vài ngày qua khi những cơn mưa rào tháng Tư báo hiệu những bông hoa tháng Năm nở rộ. Giống như trong câu truyện Phù Thủy xứ Oz, mùa đông với màu đen và trắng đã đi và mùa xuân rực rỡ đã đến. Giờ đây có hàng mảng hoa tu-líp đỏ và trắng khắp mọi nơi – rực rỡ với những chủng loại phong phú. Mai vàng đất thì nở bung những nhánh hoa vàng. Cây cối bắt đầu nhú lộc xanh trông như một làn khói mỏng đối ngược với bầu trời buổi sáng màu xanh trong vắt.

Tôi thở dài và sau đó bắt đầu nức nở nhè nhẹ. Nước mắt lăn thầm lặng xuống má khi tôi cố nén chúng lại. Tôi không muốn thành tiêu điểm chú ý trong đám những con người tràn đầy năng lượng đang chuẩn bị đi làm. Những người đàn ông và phụ nữ mặc những bộ công sở hiệu Brooks Brothers đang tràn ngập sự hưng phấn và tự chúc mừng bản thân mà tôi nhìn chỉ thấy phát ốm.

Tôi ghen tị với họ vì sự tự tin trong cuộc đời họ.

Tôi ghét họ bởi sự thoải mái mà họ có khi đối mặt với quãng đường đi làm.

Tôi biết tôi gần như vô hình đối với họ. Mặc chiếc quần đen, áo sơ mi và đội mũ Starbucks, tôi trông như một kẻ làm công – mà đó cũng chính là chức danh của tôi bây giờ. Tôi chỉ là một người khác trong đám người xuất hiện vào những khoảng thời gian bất thường để tham gia vào cuộc đua đến chỗ làm – nhưng tôi lại chuẩn bị làm cái công việc chân tay mà những Kẻ thống trị thế giới chả thèm quan tâm.

Tôi cố lau nước mắt nhưng chúng vẫn rơi không ngừng. Có lẽ đây là một loại dị ứng với phấn hoa đang ngập tràn trong không khí chăng? Nhưng tôi biết không phải vậy.

Có cái gì đó không đúng và đáng buồn về việc tôi đứng ở sân ga này để đợi tàu đi làm trong khi đang mặc một bộ đồng phục sau nhiều năm kể từ ngày tôi đặt chân đến thị trấn này. Sau khi mẹ tôi sinh thêm vài đứa con nữa (dường như bố tôi rất muốn có một đứa con trai nữa vì tôi là một sự thất vọng với ông ấy nên ông mới cố gắng đến vậy), bố tôi đã quyết định rời khỏi khu thành thị.

Ông đã chọn một thái ấp lớn kiểu Victoria ở Bronxville bởi vì nó gần với khu thành phố và một trường công tốt. Nhưng Bronxville không phải là một nơi hạnh phúc đối với tôi.

Trên đường đến trường mỗi ngày, một kẻ chuyên bắt nạt tên là Tony Douglas đều nhảy ra khỏi một bụi cây nào đó, đẩy tôi ngã và vặn cánh tay tôi đến khi tôi khóc. Thật xấu hổ khi đã tám, chín tuổi rồi mà vẫn còn khóc – nhưng tôi còn không thể phản kháng. Tôi biết khóc là cách duy nhất khiến hắn dừng lại. Thằng bé đó làm tôi rất đau. Nó còn khiến tôi sợ hãi. Nó suýt làm gẫy tay tôi. Vào mùa đông, nó sẽ dí mặt tôi xuống tuyết đến khi tôi van xin nó. Tôi đã phải van xin thì nó mới thả tôi ra. Sau đó nó sẽ đứng dậy và vừa chạy biến đi vừa cười. Tôi sẽ từ từ đứng dậy, thấy rất đau và cố nhặt lại sách vở.

Một vấn đề nữa là tôi không biết đọc. Và đó là một lý do khiến tôi thấy thật bất hạnh khi ở Bronxville. Khi tôi đến trường, tôi còn phải chịu nhiều tủi nhục hơn. Dù cố gắng đến mấy tôi cũng không thể đọc được. Tôi thực sự đã rất cố gắng. Tất cả bạn cùng lớp tôi đều học được. Thật là kinh khủng khi phải ngồi giữa lớp học mà không thể nhìn thấy những gì người khác thấy và không thể đọc những từ mà các bạn khác rất tự hào đọc to. Những từ trong các cuốn sách mà giáo viên đưa cho tôi dường như được tạo ra theo một mã bí mật mà tôi không thể giải được. Những câu chữ cứ nhảy lên trước mắt tôi. Tôi cố ép bản thân tôi phải giải mã số nhưng tôi chỉ có thể đoán nghĩa của những dòng màu đen đó.

Tôi đã cảm thấy thật kinh khủng khi một mình đối mặt với cái bằng chứng của sự ngu ngốc của bản thân và sự bất lực cũng như khốn khổ rành rành đó.

Sự thất bại của tôi thực sự là không thể lờ đi được.

Cô Markham là Hiệu trưởng của ngôi trường tiểu học. Và đó là một người khủng khiếp. Cô ấy mặc áo véc đen, thường đi dọc hành lang và đưa ra các mệnh lệnh bằng một giọng trầm.

Tôi khiến cô ấy chú ý.

Cô ấy đã gọi bố mẹ tôi đến để nói chuyện.

Mẹ tôi thì rất xấu hổ còn bố tôi thì rất giận. Tôi đã phá hỏng ngày hôm đó.

“Sao cô ấy không hẹn gặp chúng ta vào lúc khác?” bố tôi hỏi mẹ. “Cuộc họp vào ngay giữa buổi sáng!”

Vì một lý do nào đó cô Markham lại bênh vực tôi. Cô ấy tin rằng tôi sẽ ổn cả thôi mặc cho cả đống dấu hiệu cho thấy điều ngược lại. Cô ấy còn kiên quyết cho tôi tham dự cuộc họp của cô với bố mẹ tôi.

“Tôi chưa bao giờ nói điều gì về bọn trẻ sau lưng chúng,” cô ấy giải thích.

Ngay trước mặt tôi, cô ấy nói với bố mẹ tôi rằng “Michael sẽ đọc khi thằng bé muốn. Vì thế hãy ngừng làm phiền nó.”

Tôi choáng váng khi cô ấy thẳng thắn như vậy trước mặt bố mẹ tôi. Vì cô ấy rõ ràng là đang phản đối họ. Tôi luôn được bảo rằng bố mẹ tôi tuyệt vời như thế nào. Còn cô ấy thì dường như lại nghĩ rằng tôi phải được bảo vệ khỏi họ.

Niềm tin tưởng phi lý đó hóa ra lại đúng, mặc dù khả năng đọc không đến với tôi như một hành động của sự tập trung cao độ hoặc ham muốn đến hoảng sợ mà chỉ là một quá trình nhẹ nhàng và dễ dàng vào mùa hè năm tôi mười tuổi.

Mỗi mùa hè chúng tôi đều rời Bronxville đến một thị trấn miền quê nhỏ ở khu vực núi tại Connecticut. Mẹ tôi thấy hạnh phúc hơn khi ở đó. Bà đã đến Norfolk vào mùa hè khi còn trẻ và vẫn còn nhiều người bạn thời trẻ của bà đi nghỉ hè ở đó. Bạn thân nhất của bà có một ngôi nhà chỉ cách nhà chúng tôi vài thửa ruộng và con trai cô ấy cũng thành bạn thân nhất của tôi. Chúng tôi đạp xe dọc những con đường đầy bụi và đi bơi ở một cái hồ nhỏ.

Mẹ tôi sẽ đánh thức tôi dậy vào sáng sớm để tôi có thể ngắm những giọt sương lấp lánh ánh mặt trời.

“Đó là trang sức của những nàng tiên”, bà nói và ôm tôi với niềm vui sướng. “Có thứ gì đẹp hơn một buổi sáng mùa hè ở Norfolk không?

Thỉnh thoảng bà sẽ đánh thức tôi vào ban đêm khi tôi đã đi ngủ rồi nắm lấy tay tôi và dẫn tôi ra ngoài ngắm trăng.

“Nó quá đẹp phải không?” bà nói với niềm vui ánh lên trong giọng nói.

Nhưng khoảnh khắc hạnh phúc nhất của tôi là khi ngồi với mẹ trên một tấm thảm ủ ấm và bà đọc cho tôi nghe. Xuyên qua cánh đồng, tôi có thể thấy một hàng bạch dương. Lá của chúng đung đưa trong gió nhẹ… Trong một khoảnh khắc chúng màu xanh rồi lại chuyển sang màu bạc dưới ánh mặt trời của một buổi chiều cuối hè.

Chúng tôi ở trong một căn nhà nhỏ được xây bởi ông ngoại tôi giữa một cánh đồng rộng lớn và quay lưng lại một cánh rừng bất tận nơi chưa có cái cây nào bị chặt hoặc bị chạm đến trong vòng một trăm năm. Hàng ngàn dặm rừng đã bị bỏ lại vĩnh viễn. Khu vực đất rừng tách biệt đó chính là nơi ẩn náu cho tôi. Tôi thường đi loanh quanh với cung và mũi tên rồi tự nhủ với bản thân là tôi sẽ bắn một cái gì đó (mặc dù tôi chưa từng làm thế). Sự im lặng của những cái cây cao tuổi, mùi thông và dương xỉ nhẹ nhàng sẽ an ủi tôi.

Tôi cũng thích miền quê vì ở đó tôi sẽ có thời gian ở cạnh bố mình. Ở Bronxville, ông ấy bận rộn sửa sang lại một cái trang ấp có ba mươi lăm phòng và nổ rằng “Đây là ngôi nhà lớn nhất mà bất kỳ ai trong gia đình từng sở hữu.”

Ông ấy mua được căn nhà này bằng cách bán căn nhà bằng gạch xám của chúng tôi ở đường Bảy mươi tám và đổ hết tiền vào đây. Tổng diện tích mái ngói phải sửa sang lại lên đến cả mẫu. Ông ấy xây một cái thư viện hai tầng. Tôi nghe lỏm thấy ông ấy nói với bạn mình là “Tôi luôn muốn có một cái thư viện riêng với một cái thang giống như thế này,” rồi mô tả một cái thang có thể di chuyển để với tới những tầng cao nhất của giá sách.

Ông ấy có những số báo cũ của tờ tạp chí Người New York. Tôi sẽ trèo lên cái thang để lấy những tờ báo này xuống. Nó giống như tôi đang đi làm cùng bố mình mặc dù ông ấy hầu như chẳng bao giờ ở nhà. Mặc cho niềm tự hào đối với ngôi nhà, ông ấy dường như luôn háo hức được đi ra ngoài và trở lại cuộc sống ở thành thị của mình. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy ông ấy đến thư viện của mình, đọc một cuốn sách hay chỉ là ngồi xuống. Một khi chuyển đến Bronxville, ông ấy càng dành ít thời gian cho tôi và gia đình. Ông ấy sẽ ra ngoài vào sáng sớm và trở về nhà sau khi tôi đã đi ngủ vào buổi tối.

Nhưng tôi lại thích đọc những tờ Người New York cũ – những mẩu hoạt hình và thậm chí cách các cột báo được sắp xếp trong một trang. Mặc dù tôi không thể hiểu chúng có nghĩa gì, tôi vẫn có thể cảm nhận được cái mà bố tôi luôn tự hào được là một phần của nó.

Một buổi chiều ở vùng quê, tôi đến căn nhà nhỏ và đi dạo quanh khu rừng. Mẹ tôi thì đang ngủ trưa còn em gái tôi, những đứa mà làm gì cũng có nhau, thì đang chơi với bạn chúng nó. Tôi ở một mình trong phòng khách cũ. Tôi mở một cuốn sách cổ. Vì đây là một ngôi nhà nhỏ cho kỳ nghỉ hè thế nên hầu hết những cuốn sách đều được mang đến từ nhiều thập kỷ trước và bị bỏ lại ẩm mốc trên giá sách.

Tôi chọn một cuốn sách rất dày nhưng lại có hình. Tôi mở đến một trang có hình.

“Tướng Grant,” tôi đọc. Tôi thế mà lại có thể đọc tên ông ấy. Tôi có thể đọc! Đầu tiên là vài từ và sau đó ngày càng nhiều từ hơn. Đột nhiên những con chữ in màu đen đều có nghĩa trong đầu tôi.

Tôi không nói với bất kỳ ai, nhưng đến khi chúng tôi trở về Bronxville vào mùa thu, tôi đã học được rất nhiều chữ. Tôi thậm chí còn tự tin để đọc bài ở trường.

Mặc dù đến tận lớp sáu tôi mới có thể làm được cái việc mà bạn bè mình đã làm được từ lâu, Cô Markham vẫn rất hài lòng. Tôi đã chứng minh niềm tin điên rồ của cô.

Vào một buổi chiều trước khi kết thúc năm học đó, Cô Markham đã mời tôi đến nhà cô. Khi tôi học hết lớp sáu, tôi sẽ lên lớp bẩy và cũng học ở tòa nhà gạch to lớn đó. Nhưng năm sau thì tôi sẽ lên cấp hai và sẽ rời khỏi trường của cô, nơi mà rõ ràng là Cô Markham đang có quyền kiểm soát.

Cô ấy sống với một người phụ nữ nữa trong một ngôi nhà lớn ở gần trường.

Cô ấy mời tôi uống trà.

Rồi cô ấy lấy ra một tờ giấy ghi chép và cho tôi xem. Chữ của cô to và cứng cáp.

“Đọc nó đi,” cô hướng dẫn bằng giọng sang sảng.

“Michael Gates Gill đã được định sẵn là sẽ trở nên vĩ đại,” tôi đọc.

Tôi ngước nhìn. Đây có phải là một bài thi không? Liệu có phải tôi vừa mới vượt qua một kỳ thi đọc nào đó?

“Còn gì nữa không ạ?” tôi hỏi và rất háo hức được đọc thêm cho cô ấy. Nếu không có cô ấy tôi có lẽ đã phải đi đến ngôi trường nào đó dành cho “học sinh đặc biệt” như bố mẹ tôi đã từng thảo luận.

“Hết rồi,” Cô Markham nói rồi rướn người lên phía trước để cầm tay tôi.

Tôi để ý thấy cô có hàng lông mày dày và đôi mắt màu nâu rất sáng.

“Cô đã quyết định,” cô ấy nói. “Con, Michael,” cô ấy tiếp tục như thể đang thực hiện một thông báo chính thức và công khai, “được định sẵn cho sự vĩ đại. Cô không quan tâm con làm gì, hay không làm gì. Cô không quan tâm nếu con đi học tại một ngôi trường đại học danh giá hay không. Cô chỉ biết rằng: Con thật vĩ đại.”

Cô ấy ngồi lại, thả tay tôi ra và cười với tôi.

Tôi không biết phải nói gì và tôi cũng không thực sự hiểu ý của cô ấy.

Cô ấy rướn người về phía trước và lặp lại. “Cô hầu như ít khi làm việc này,” cô ấy nói, “nhưng cứ mỗi vài năm thì cô lại thấy một người trẻ tuổi có những khả năng khác biệt. Cô muốn con biết rằng mình đáng giá. Chính con chứ không phải việc mà con làm.”

Đáng giá ư? Tôi nghĩ, nhưng mà thế nghĩa là gì?

“Có lẽ bây giờ con chưa hiểu ý nghĩa của dòng ghi chú này,” cô ấy nói khi cảm nhận được sự bối rối và sự lơ mơ của tôi, “nhưng hãy cất nó trong một ngăn tủ nào đó. Lấy nó ra mỗi năm và đọc nó lên. Vì giờ con đọc được rồi mà!”

Cô ấy cười và sau đó lại trở nên nghiêm túc. Tôi chỉ là một cậu bé con và cô ấy biết cô ấy vẫn chưa khiến cho tôi hiểu được.

“Con chưa từng nghĩ mình có thể đọc được đúng không?” cô ấy hỏi tôi bằng một giọng mềm nhẹ.

“Đúng ạ,” tôi nói.

“Nhưng cô thì biết,” cô ấy nói. “Và cô biết rằng con vĩ đại. Nhưng con thì lại không biết điều đó phải không?”

“Đúng ạ.”

“Đấy, chỉ cần nhớ là cô đã nói với con như vậy.”

Tôi vẫn nhìn ngơ ngác.

Tôi không quen bất kỳ ai trong những người đã đến thăm nhà Cô Markham và cũng chưa từng nói chuyện riêng với cô. Có lẽ vì thế mà tôi cảm thấy rất ngại ngùng. Mặc dù tôi thấy ngại ngùng với tất cả mọi người. Tôi biết cô ấy muốn tôi nói cái gì đó để đáp lại những gì cô ấy đã nói với tôi. Đó rõ ràng là một món quà tuyệt vời. Tôi có thể cảm nhận tình cảm và sự ủng hộ của cô ấy. Nhưng tôi lại chẳng biết phải nói gì.

“Anh trai cô,” cô ấy nói, một cách nhẹ nhàng không giống cô ấy chút nào, “là một kẻ nghiện rượu. Nhưng anh ấy có rất nhiều tài năng. Cô đã không thể giúp anh ấy. khi cô nghĩ lại cô thấy có lẽ anh ấy chưa bao giờ biết rằng mình tuyệt vời thế nào.”

Có phải cô ấy đang khóc không?

“Hãy giữ lấy tờ giấy này,” cô ấy nói, giọng nặng cảm xúc. “Hãy giữ nó.”

Cô ấy đứng lên và đưa tôi ra cửa, và một lần nữa cô ấy lại trở lại là Cô Markham đầy năng lượng, thuộc phái hành động và đầy sự linh hoạt mà tôi biết.

Chúng tôi bắt tay một cách khá là trịnh trọng.

Tôi rời đi, và vì một lý do gì đó đã dừng lại ở góc đường và nhìn lại.

Cô ấy đang nhìn tôi.

Cô ấy vẫy tay.

Tôi vẫy tay lại.

Tôi đã giữ mẩu giấy đó của Cô Markham trong vài năm nhưng rồi làm mất nó khi đi học đại học vì mẹ tôi đã vứt khá nhiều đồ cũ của tôi đi. Nhưng tôi vẫn luôn nhớ buổi chiều rực rỡ đó.

Tôi gặp lại cô một lần sau khi tốt nghiệp đại học, ở Bộ phận quản lý xe cộ nơi mà cả hai đều đến để gia hạn bằng lái của mình.

Cô đã nghỉ hưu, già đi và tóc cô đã bạc.

“Michael,” cô gọi tôi qua sảnh phòng đợi cũ kỹ.

Giọng cô vẫn như vậy.

Tôi đứng lên để đến chỗ cô.

Cô cũng đứng lên và đi về phía tôi.

“Con dạo này thế nào?”

“Tốt ạ,” tôi nói. “Con đã tốt nghiệp đại học Yale.”

“Con không cần phải đến bất kỳ trường đại học nào,” cô ấy nói. “Có còn nhớ mảnh giấy cô cho con không?”

“Có ạ.”

“Cô cũng vẫn còn nhớ!” cô ấy nói, và nở một nụ cười. “Không phải những gì con làm mà chính việc con là người như thế nào mới vĩ đại.”

Lúc đó người ta gọi tên tôi và tôi đi đến quầy thủ tục để điền giấy tờ và chụp ảnh. Khi tôi hoàn thành thì cô đã đi mất rồi. Tôi cũng chưa bao giờ cố gắng để gặp lại Cô Markham.

Ngay cả khi đã hai mươi mấy tuổi và đứng ở văn phòng Bộ phận quản lý xe cộ, tôi vẫn không thể chắc về việc làm thế nào đáp lại niềm tin mà cô ấy có với tôi. Tôi không có lời nào để nói với cô cả. Nhưng tôi đã được động viên bởi niềm tin mà cô có đối với tôi và tôi đã tìm được tình yêu với ngôn ngữ.

Cô Markham có thể đã đoán được những gì sẽ xảy ra. Sau khi tôi học cách đọc tôi đã trở nên yêu thích các cuốn sách. Tôi khám phá thế giới mà những câu từ có thể đưa tôi tới. Bắt đầu từ khi tôi lên mười thì mỗi ngày tôi đều dành hàng giờ để đọc sách. Tôi thích trốn trong thế giới của những con chữ và những cuốn sách.

Cuộc sống của tôi lúc đó rất cô đơn. Cha tôi ghé qua vào mỗi cuối tuần trong mùa hè nhưng vào mùa đông thì ông ấy quá bận rộn để có thể dành thời gian cho tôi.

Tôi có vài người bạn nhưng đối với tôi thì có một cái gì đó kinh khủng về cái thị trấn ngoại thành ưu tú này. Ở thành phố New York, kể cả khi Nana rời bỏ tôi và tôi cảm thấy cô đơn thì tôi vẫn có thể nhìn ra ngoài cửa sổ ngôi nhà để ngắm người ta đi qua lại bên ngoài. Có người già, trẻ con, cảnh sát đi tuần tra, những cô cậu thanh niên chạy dọc khu phố.

Ở Bronxville, trong ngôi nhà rộng lớn của chúng tôi thì chả có ai thèm đi qua… mà chỉ có cảnh một chiếc xe vụt qua hàng rào cao của nhà chúng tôi và tiếng bánh xe ma sát đánh kít khi rẽ ở góc đường.

Tôi thấy thoải mái hơn khi ở vùng quê. Ở Norfolk,  thỉnh thoảng vào cuối tuần, bố tôi sẽ để tôi đẩy xe cho ông khi chơi golf. Và khi ông tới khu hồ với gia đình thì tôi có thể dành cả ngày đi theo ông.

Ông sẽ gọi với theo và mời Jay Laughlin, người đàn ông sở hữu khu cắm trại bên cạnh, khi ông ta bơi ngang qua, “Ra khỏi chỗ ẩm ướt đó và tìm chỗ nào khô ráo làm một ly Martini nhé”.

Jay cũng giống bố tôi khi dành cả cuộc đời cho văn học. Ông ta là nhà sáng lập của công ty xuất bản Những hướng đi mới. Nhưng không giống bố tôi, ông ấy rất u ám và hiếm khi cười. Chỉ có ở trước mặt bố tôi thì Jay sẽ phá lệ cười to.

Rất nhanh, bố tôi đã tụ tập được một đám ngồi đó và cười theo những lời nói đùa của ông còn tôi có thể chìm đắm trong sự hiện diện của ông và không khí tươi vui mà ông tạo ra. Với tôi thì khi bố tôi ở cùng với những người cùng tuổi với mình, ông là người hài hước nhất thế giới.

Với tôi, ông vừa kỳ quặc vừa đáng yêu theo cách riêng.

Thỉnh thoảng ông sẽ hát cho tôi những bài hát mà ông nội đã hát cho ông nghe. “Cậu bé hát rong.” “Cậu bé rối gỗ”. Những làn điệu Ai-len cổ xưa. Những lần khác, trong các bữa ăn gia đình và khi thấy buồn chán, ông sẽ trích dẫn thơ cho chúng tôi nghe. Toàn những bài thơ buồn. “Chẳng có gì để tự hào nhìn lại,” ông ngâm nga câu thơ từ bài “Cái chết của người đàn ông làm thuê” của Robert Frost. “Đó không phải một cái nhìn cuộc đời buồn bã sao?” ông ấy hỏi mọi người trên bàn nhưng tôi sẽ giữ im lặng.

Khi còn là một cậu bé tôi thực sự không có ý tưởng gì về những thứ ông ấy đang nói.

Thậm chí sau này khi học tại Yale, khi gặp Robert Frost, tôi vẫn không thể hiểu được sự buồn bã trong thơ của ông. Tất nhiên Robert Frost cho mọi người thấy mình là một quý ông miền quê vui vẻ. Tôi vẫn nhớ mình đã chạy từ lớp học đến một bữa tiệc rượu vang dành để vinh danh nhà thơ nổi tiếng này. Tôi không phải thay quần áo vì giống như các sinh viên đại học khác, tôi mặc áo khoác và thắt cà vạt. Yale lúc đó chưa bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến tranh Việt Nam và niềm vui của sự chuyển giao sang một nền giáo dục bình đẳng cho nam và nữ. Chúng tôi vẫn được bao bọc trong một thứ hổ phách được bảo quản hoàn hảo của một môi trường cổ xưa nơi mà Dink Stover và những quý ông ăn mặc lịch lãm của Yale từ vài thập kỷ trước vẫn còn có ảnh hưởng lớn. (Dink Stover là nhân vật chính của một cuốn sách viễn tưởng bán chạy cùng tên được xuất bản đầu thế kỷ hai mươi và vẫn được tái bản ngày nay. Dink là một vận động viên hàng đầu nhưng vẫn rất lịch thiệp. Hơn hết, Dink Stover hành xử như một quý ông thực thụ. Cao trào của cuốn sách đó là khi tính cách vĩ đại vốn có của Dink được công nhận khi ông ấy bị ảnh hưởng bởi hội kín Đầu lâu & Xương của trường). Giáo sư của tôi gọi tôi là “Ông Gill”, và giáo viên tiếng Anh của tôi đã mời tôi tới “uống một ly rượu vang với Robert Frost.”

Giáo sư Waite đón tôi ở cửa và hối tôi đi vào. Đã có khoảng nửa tá sinh viên đứng quanh một người đàn ông cao lớn ở giữa căn phòng. Frost mặc một cái áo khoác len dầy và trên đầu ông là một đám tóc trắng mà bằng cách thần kỳ nào đó trông như vừa bị gió thổi mặc dù chúng tôi đang ở trong khu vực sảnh ấm sực của khoa.

Ông chào đón tôi với một cái ôm mạnh mẽ và đôi mắt cười.

Chẳng có ai trong chúng tôi hỏi ông về tác phẩm của ông. Bởi vì thật không lịch sự khi làm thế trong hoàn cảnh này. Nó giống như hỏi một bác sỹ đưa ra chẩn đoán khi đang nói chuyện với ông ta trong một bữa tiệc rượu.

Trên thực tế, tôi chưa bao giờ nhớ đã thảo luận về thơ ca và việc viết lách với bất kỳ nhà thơ nào mà tôi đã gặp ở Yale. Khi ngồi uống với W.H. Auden ở quán Mory’s, chúng tôi sẽ thảo luận cách thích hợp để tạo ra một loại đồ uống nào đó. Khi tôi được mời đến gặp T.S. Eliot, người đã đến New Haven để giảng bài vào một buổi tối, thì giáo sư của tôi, Norman Holmes Pearson đã đặc biệt dặn dò, “Đừng hỏi ông ấy bất kỳ câu hỏi nào. Có tin đồn rằng ông ấy bị ung thư và đang đi vòng quanh giảng bài để có tiền cho vợ ông ấy.”

Khi Donald Hall, nhà thơ vừa mới đoạt giải đến thăm New Haven, tôi đã được yêu cầu đưa ông ấy ra ngoài ăn tối. Chúng tôi cuối cùng dành cả đêm để uống với đám sinh viên say khướt – điều mà ông ấy khá là hài lòng. Một lần nữa chủ đề về thơ của ông ấy hay bất kỳ bài thơ nào không được nhắc đến.

Một phần của quy định xã hội bắt buộc ở Yale cũng giống như ở nhà tôi là không được hỏi quá nhiều câu hỏi trực tiếp.

Vì vậy khi là cậu bé con đang trưởng thành, tôi sẽ chẳng bao giờ hỏi bố tôi ý nghĩa của việc ông trích dẫn thơ Frost hay thơ của bất kỳ ai. Tôi là một khán giả dễ tiếp nhận và tôi không cần phải làm gì hơn.

Hầu như ngày nào bố tôi cũng đều nói, “Ở lại với anh đi người đẹp vì ngọn lửa đang lụi tàn.”

Tôi từng hỏi ông điều đó nghĩa là gì.

“Đó là một câu trong một bài thơ,” ông luôn trả lời như vậy. Tôi không thực sự nhận ra cái điều kinh khủng mà bố tôi đã phải sống cùng cho đến khi bố tôi mất. Mặc dù có một vài ám chỉ cho cái bi kịch mà ông đã phải chịu đựng.

Vào sinh nhật thứ bẩy của tôi, khi mẹ chuẩn bị một bữa tiệc cho tôi sau khi tan học với bóng bay, bánh ngọt và thậm chí vài người bạn của tôi cũng có mặt thì bố tôi lại đột ngột về nhà sớm và thấy chúng tôi quây quần bên nhau cười nói trong phòng ăn.

Ông bước vào phòng và tất cả đều im lặng. Sự xuất hiện của cha tôi tạo ra áp lực và với đôi mắt màu đen lớn ông rõ ràng là đang giận.

Ông định nói gì đó.

“Vâng, anh yêu?” mẹ tôi nói. Bà luôn lo lắng khi để ông tham gia vào các hoạt động của gia đình. “Mọi người chuẩn bị một bữa tiệc nhỏ chúc mừng Gates bé bỏng tròn bẩy tuổi.”

“Mẹ tôi chết khi tôi mới bẩy tuổi,” bố tôi nói và sau đó rời khỏi phòng.

Mẹ tôi theo ông ra ngoài.

Tôi không nhớ những gì bạn tôi và tôi nói khi đó, nhưng tôi nghĩ chúng tôi tiếp tục chơi với những món quà mà mẹ đã chuẩn bị.

Nhưng rõ ràng là bố tôi không cảm thấy thoải mái khi nói chuyện hay thậm chí là ở cùng một chỗ với tôi.

Tôi từng nghe lỏm được ông nói với mẹ, “Tôi không thể đợi đến khi Machael Gates trưởng thành để tôi có thể nói chuyện đàng hoàng với nó.”

Nhưng – mặc cho sự khó chịu rõ ràng với tôi và mẹ tôi – ở miền quê và vào dịp cuối tuần, bố tôi gắn bó nhiều hơn với gia đình hơn là khoảng thời gian ở Bronxville.

Và vào những ngày trong tuần khi bố tôi “làm việc vất vả ở thành phố” thì chúng tôi có thể bơi và đi dạo trong rừng để ngửi hương thông và thưởng thức không khí Norfolk trong lành – đầy hương vị đồng cỏ và rừng cây – vào buổi tối khi đi ngủ.

Và mỗi tối khi đi ngủ tôi đều cười, nghĩ rằng mẹ có lẽ sẽ đến đánh thức tôi và dẫn tôi đến với “mặt trăng” của bà.

Nhưng Bronxville lại chả có tí hấp dẫn nào đối với tôi.

Làm sao mà tôi lại ở đây … đứng ở sân ga Bronxville … sống trong một căn hộ bé tí thay vì một trang ấp rộng lớn… không có gia đình hay bạn bè chứ? Tôi lại càng cố lau nhiều nước mắt hơn.

Một khi tôi có được việc làm ở Starbucks, tôi đã cố tìm một căn hộ khác gần cửa hàng và nhận ra rằng tôi chẳng đủ khả năng để trả tiền cho bất kỳ chỗ nào.

Tôi bắt đầu tìm kiếm ở khu Manhattan. Rồi tôi chuyển dần lên phía thượng của khu Thượng phía Tây, vượt qua Bronx, Mount Vernon và tôi thậm chí đã bắt đầu nghĩ đến tận Brewster. Chẳng có chỗ nào gần thành phố hơn mà tôi có thể trả nổi.

Một ngày khi đang trên đường đi tìm nhà trọ, tôi dừng lại ở Bronxville để ăn một cái bánh hăm-bơ-gơ tại một cửa hàng của một người bạn cấp ba. Phil nói với tôi anh ấy vẫn giữ lại ngôi nhà của bố mẹ và nó có một căn gác xép nhỏ ở tầng ba.

“Căn nhà nằm ngay cạnh đường ray xe lửa,” Phil nói với tôi, “nhưng nó thật sự rất tiện lợi và tôi sẽ cho anh thuê với giá tốt.”

Tôi bắt ngay lấy cơ hội đó. Một căn phòng nhỏ hợp với tôi. Tôi thích leo lên những bậc thang cũ kỹ và sống trong căn gác xép của một căn nhà cũ.

Tàu đã đến.

Tôi lên tàu, trộn lẫn đằng sau một đám người như những con hải ly hào hứng. Tôi biết rằng việc ủ rũ không phải là một cách tốt để bắt đầu một ngày và vì thế tôi cố gắng nhớ lại những kỷ niệm đẹp tại Bronxville.

Cha tôi tổ chức vài bữa tiệc lớn mỗi năm ở ngôi nhà của chúng tôi ở Bronxville. Ông ấy luôn tìm cách giới thiệu tôi với một ai đó mà tôi có thể thấy hứng thú. Khi tôi còn nhỏ, tôi đã từng gặp E.B. White bởi vì tôi đã rất yêu thích Stuart bé nhỏ. E.B. White vô cùng nhỏ bé, tốt bụng và tò mò. Giống hệt Stuart bé nhỏ.

Sau đó khi tôi lớn hơn, bố tôi mời Brendan Behan, nhà soạn kịch nổi loạn người Ai-len đến nhà để tôi có thể gặp mặt. Tôi yêu Behan vì những bài hát điên rồ của ông ấy về những cái chuông của địa ngục có thể kêu “Ting a ling a ling cho anh chứ không phải cho tôi.”

Tôi tự nhủ với bản thân rằng tôi cũng đã có khoảng thời gian tốt đẹp ở Bronxville. Nhưng tôi phải thừa nhận rằng những bữa tiệc lớn đó và cả những nhân vật văn chương nổi tiếng đều hầu như chả có ý nghĩa gì với tôi. Tôi thích có nhiều thời gian với bố mình hơn.

Ở tuổi sáu mươi tư, tôi nhắc nhở bản thân rằng tôi sẽ sớm chết thôi … giống những bài hát của Behan. Liệu tôi có muốn dành phần thời gian còn lại của mình để than khóc cho quá khứ hay không? Đã đến lúc phải phấn chấn lên để đối mặt với một vài năm ngắn ngủi còn lại trong đời.

Vì một lý do nào đó mà lúc đó tôi đã cố gắng bí mật ghi lên cái ghế tôi đang ngồi trên đường đến chỗ làm mới ở Starbucks một câu nói của F.Scott Fitzgerald “Không có cơ hội thứ hai ở nước Mỹ.”

Liệu tôi có đang thực hiện một nhiệm vụ vô vọng để bắt đầu một cuộc sống mới? Không phải cái cuộc sống mưu sinh bây giờ chính là cái mà tôi đã từng coi thường và một dấu hiệu của việc tôi đã đi sai đường?

Tôi hít thật sâu, ngôi thẳng trên ghế và cố gắng nghĩ thông suốt.

Tôi cảm thấy tôi thực sự thích làm việc với Crystal. Thật khó khăn để thừa nhận nhưng bằng nhiều cách tôi thực sự thích làm việc ở Starbucks hơn khi còn làm việc cho JWT.

Thành thật đi Mike, tôi nghĩ, tự gọi bản thân bằng cái tên được dùng cho tôi ở Starbucks. Mày thấy tốt với những gì đang làm. Chỉ bởi vì mày mặc một cái tạp dề xanh hơn là bộ quần áo hiệu Brooks Brothers không có nghĩa là mày không thể thưởng thức điều đó.

Tôi thực sự đã phá lên cười.

Âm thanh hạnh phúc đó khiến những người khác nhìn tôi.

Họ thậm chí đã chẳng để ý đến tôi đã khóc nhưng cười thì đúng là thứ kéo sự chú ý.

Khi đến ga Grand Central, tôi đã thực sự cảm thấy tốt. Tôi xuống khỏi tàu và cố đi đằng trước dòng người di chuyển lên trên. Rất ít, thậm chí chẳng có ai sẽ đi cùng tôi đến Quảng trường Thời đại để đến khu Thượng phía Tây.

Khi ép mình vào chuyến tàu, tôi thấy mình tự tin hơn.

Chả có gì sai khi làm việc ở Starbucks cả, tôi tự nói với bản thân, và điều đó còn rất đúng đắn nữa. Giờ tôi có thể tự trả tiền cho căn phòng nhỏ của mình. Nó không phải là trang ấp rộng lớn mà tôi đã từng ở hay ngôi nhà thôn quê xinh đẹp ở khu New England mà tôi sống với vợ trước và con nhưng nó giờ là nhà của tôi. Một căn phòng cho riêng tôi.

Chuyến tàu nhanh đưa tôi đến con phố Chín mươi ba.

Tôi trèo lên các bậc thang dốc để vươn tới … ánh mặt trời. Đó là một ngày đẹp ở thành phố New York… một trong những ngày mùa xuân hiếm có khi mà không khí cũng thực sự lấp lánh.

Tôi nhìn thấy cái biển hiệu màu xanh của Starbucks ở góc đường Chín mươi ba và hướng đến đó với niềm lạc quan lớn dần.

Một câu nói nữa của Fitzgerald xuất hiện trong đầu tôi. Đó là những dòng ông ấy viết cho con gái mình sau khi vợ ông ấy qua đời trong một đám cháy ở bệnh viện tâm thần tại Ashville, Bắc Carolina sau nhiều năm suy sụp. Zelda, vợ ông chưa bao giờ thực hiện được những lời hứa trước đó và Fitzgeralk đã viết, “Bà ấy đã nhận ra quá muộn rằng làm việc cũng là phẩm giá.”

Làm việc là phẩm giá, tôi lặp lại. Đó có thể là câu thần chú của tôi.

Tại sao tôi lại mất nhiều thời gian như thế để nhận ra sự thật cần thiết này chứ? Fitzgerald đã viết cho con gái ông ấy một nhận thức căn bản nhưng tôi đã cãi nhau với con gái mình Elizabeth, người mà tôi gọi là “Bis” khi con bé muốn đi làm. Khi con bé mới có mười hai tuổi, nó đã nhận được một công việc làm thêm mùa hè, đó là giúp một tay chơi tennis nhà nghề lên lịch trình và dạy. Và tôi đã từ chối công việc đó mà thậm chí còn chẳng hỏi con bé.

“Sao bố có thể làm thế?” Bis khóc và nước mắt tuôn ra từ đôi mắt con bé.

“Bố chỉ muốn con có thời gian để chỉ hưởng thụ mùa hè thôi.”

“Nhưng con thích làm việc,” Bis trả lời một cách cáu giận.

Đối với tôi, làm việc là thứ một người phải làm chứ không phải thứ mà họ nên làm. Tôi ngưỡng mộ những người không phải làm việc … và thèm khát những khoản quỹ tín thác khổng lồ mà vài người bạn giàu có của tôi có. Tôi nghĩ tôi đã giúp Bis khi bảo vệ con bé khỏi phải làm việc. Nhưng tôi đã sai.

Bis luôn muốn làm việc và hoạt động bên ngoài ngôi nhà. Thậm chí khi còn bé, con bé đã yêu thích việc đến trường. Bởi vì nó là đứa con đầu tiên của tôi nên tôi đã không biết thái độ đó là hiếm có cỡ nào. Thậm chí trước ngày đầu tiên đi học, con bé đã tự học đọc. Một ngày khi tôi đang ngồi đọc ở cái ghế bành yêu thích, Bis trèo lên lòng tôi và bắt đầu đọc những câu chữ trong một câu chuyện huyền bí của Dick Francis mà tôi đang say mê. Lúc đó con bé mới chỉ có ba tuổi và tôi đã rất ngạc nhiên! Con bé học đọc thế nào chứ? Nó tự học ư? Rồi tôi nghĩ đến một điều: Bis đã học đọc bằng việc xem Phố Sesame. Chương trình này đã dạy con bé. Tất nhiên sau này khi những đứa trẻ khác ra đời tôi mới biết rằng không phải chương trình Phố Sesame đã dạy Bis đọc – con bé chỉ đơn giản là được sinh ra với khả năng đọc phi thường cái mà nó tất nhiên không di truyền từ tôi.

Bis còn rất may mắn vì con bé xinh đẹp. Thậm chí khi còn là một đứa bé gái, khi tôi đi bộ với con bé trên đường phố New York thì có những tay nhiếp ảnh nhiệt tình quá mức sẽ dừng tôi lại và hỏi xin chụp ảnh con bé. Một người bạn đã cho con bé tham gia một bộ phim vì anh ta nói con bé là “người được tán thưởng”. Bis có mái tóc vàng óng và đôi mắt xanh. Nhưng chính sự thông minh và sự chăm chỉ muốn hoàn thành mọi việc mới là điểm đáng chú ý ở con bé. Sau tốt nghiệp trung học và cao đẳng, con bé đã theo học ở trường NYU Film và sau đó làm việc như một trợ lý cho Martin Scorsese… một ông chủ khó tính. Sau đó con bé làm việc cho Harvey và Bob Weinstein – một thách thức còn lớn hơn. Nhưng Bis dường như thích mọi công việc khó khăn mà họ giao cho nó. Và sự chăm chỉ đó đã được đền đáp. Con bé đã giúp quảng bá bộ phim Trò chơi than khóc. Nhà sản xuất đã rất ấn tượng với con bé và đề nghị nó làm đạo diễn cho một bộ phim truyện. Đây chính là giấc mơ của con bé – trở thành đạo diễn phim. Thậm chí khi còn đang làm việc cho Scorsese và Miramax con bé vẫn có thời gian hoàn thành vài bộ phim ngắn. Giờ con bé đã có cơ hội đạo diễn hẳn một bộ phim dài. Bộ phim, Vàng trên đường phố được ghi hình ở New York và Ai-len. Bis phát hiện ra rằng Ai-len là thị trường cởi mở hơn cho các nữ đạo diễn và con bé chuyển đến đó để tiếp tục công việc của mình.

Làm việc chăm chỉ là bản tính tự nhiên của con bé… Mà tại sao tôi lại không nhận ra lợi ích gì từ tấm gương của con bé nhỉ? Thái độ của con bé lý ra đã phải giúp tôi học về phẩm giá trong công việc – thậm chí khi còn làm việc như một trợ lý pha cà phê thì Bis cũng làm việc một cách nhiệt tình. Tôi giờ mới nhận ra Bis là một điều kỳ diệu – con bé không những không giống tôi ở khả năng đọc kém cỏi mà nó còn không giống tôi ở việc coi công việc như tiếng gọi thay vì một trách nhiệm.

Ý nghĩ về Bis khiến tôi thấy thoải mái hơn khi tôi mở cánh cửa và đi về phía sau cửa hàng Starbucks để chào đón thêm nhiều công việc khó khăn hơn.

Tôi đã hy vọng Crystal sẽ ở đó và giao cho tôi làm một việc gì mà không liên quan đến công việc tính tiền đáng sợ kia. Dù vô cùng lo lắng và muốn chứng minh bản thân như một Cộng sự mới của Starbucks, tôi vẫn lưỡng lự khi phải ra ngoài cùng những người khác để tiếp đón khách hàng. Tôi vẫn chưa tiếp nhận quầy tính tiền nhưng ý nghĩ đó thôi cũng khiến tôi sợ hãi. Vì vậy tôi thường đứng ở đó trong phạm vi trung lập nơi “văn phòng” của Crystal. Đó là một khoảng nhỏ với một cái bàn, ghế và một cái máy tính. Trong vài tuần trở lại đây, Crystal thường quay ra nhìn tôi sau khi tôi đứng ở đó được một lúc và hỏi, “Anh thấy công việc cọ rửa thì thế nào?”

Tôi thì thường trả lời, “Tôi sẽ không mong gì hơn!”

Cọ rửa, tôi nghĩ sẽ giúp tôi tránh được những quầy tính tiền kinh dị kia. Tôi nghĩ mình sẽ thua, thua thảm hại nếu bị bắt thanh toán tiền và nói chuyện với khách hàng cùng một lúc vì thế tôi muốn nhận được sự kính trọng của Crystal và sự phụ thuộc của cô ấy vào tôi trong một lĩnh vực mà tôi có thể học để làm được.

Tất nhiên tôi không có kinh nghiệm về cọ rửa. Ở nhà, vợ trước của tôi làm mọi công việc lau chùi và chúng tôi có người dọn dẹp tới để làm những công việc nặng nhọc như lau dọn nhà tắm và nhà bếp. Và tôi khi đó là một giám đốc điều hành cấp cao nên tôi cũng chả bao giờ dọn dẹp văn phòng của mình. Những người dọn dẹp đem theo những cái túi rác và máy hút bụi sẽ làm việc đó vào tối muộn, đôi khi vào lúc tôi chuẩn bị rời đi. Tôi tự hào là bản thân luôn lịch sự với họ nhưng thực chất chả để ý mấy đến việc làm thế nào mà họ giữ cả văn phòng sạch sẽ.

“Đây là bã kẹo cao su,” Crystal nói vào ngày đầu tiên làm việc của tôi. “Mất rất nhiều công sức để loại bỏ đám này. Chúng ta có gạch và chúng ta có cả vấn đề bã kẹo cao su. Hoặc tôi nên nói là chúng ta có cơ hội mang tên bã kẹo cao su.”

Đây đích thực là một cơ hội cho tôi.

Crystal đưa cho tôi một cái chổi chà bã kẹo. Và cô ấy chỉ cho tôi cách đổ đầy cái thùng lau dọn với nước nóng và hỗn hợp nước cọ rửa. Tôi sẽ lau và chà rồi đào cái đống bã kẹo đó bằng cái chổi và lại chà lần nữa. Chỉ vài một mét sàn cũng tốn khá nhiều thời gian. Và tôi phải tốn hàng giờ để lau sạch cả cửa hàng. Tôi chiến đấu với công việc lau dọn của mình với một thứ năng lượng điên cuồng.

Có một lần Crystal đi đến chỗ tôi và bật cười.

“Mike, tôi chưa bao giờ thấy ai lau dọn mà lại nhiệt tình đến thế.”

“Tôi thích việc này,” tôi nói và tôi thực sự nghĩ thế. Tôi có thể thấy sự thay đổi tôi đang tạo ra. Ngay cả những người Cộng sự cũng âm thầm dành cho tôi một sự kính trọng. Tôi đoán là họ đã không nghĩ rằng ông già da trắng này sẽ thích thú với công việc dọn bã kẹo cao su.

Kester cũng đến và nở một nụ cười khuyến khích khi nói với tôi, “Cẩn thận với cái nhà vệ sinh đó.”

Chắc chắn rồi vì vào một ngày Crystal nói, “Mike, tôi sẽ chỉ cho anh cách làm thế nào để thực sự lau sạch một cái nhà vệ sinh. Anh chắc cũng biết thỉnh thoảng chỗ rửa xe sẽ nói họ đang “dọn từng ngóc ngách” xe của anh phải không? Chúng ta cũng “dọn từng ngóc ngách’ của một nhà vệ sinh. Chúng ta sẽ cùng làm nó một lần. Sau đó tôi muốn anh đảm bảo là tất cả nhà vệ sinh lúc nào cũng lấp lánh.”

Crystal bảo tôi mang găng tay và đưa cho tôi một chất tẩy rửa cực mạnh. Tôi phải cúi người xuống dưới cái bệ toilet và lôi ra một đống các loại rác rưởi. Tôi ngạc nhiên khi tôi không quá bài xích công việc mà trước đây tôi đã nghĩ là hạ đẳng và là một nỗi sỉ nhục khi phải hoàn thành. Nhưng vì Crystal trông có vẻ tích cực về việc này và sự kính trọng của cô ấy đối với thách thức lau dọn một cái nhà vệ sinh khiến tôi cảm thấy hoàn toàn khác. Đối với cô ấy thì đây là một nỗ lực đáng giá và tôi là ai mà dám tranh cãi về quan điểm của Crystal đối với công việc và thế giới chứ? Tôi cũng cảm thấy một sự dâng trào adrenaline nguyên thủy theo bản năng của loài vật rằng nếu tôi có thể thành công trong việc làm gì đó cho Crystal thì tôi có thể giữ được công việc này – dù cho tôi có gặp phải khó khăn gì với quầy thanh toán hoặc những thách thức khác của môi trường bán lẻ đòi hỏi sự di chuyển nhanh chóng này. Vì vậy tôi rất vui mừng mà đi theo sự quyết tâm lạc quan của cô ấy để làm công việc vĩ đại là cọ nhà vệ sinh.

Rất nhanh, cái toilet đã thực sự lấp lánh.

Cô ấy cười.

“Mike, tôi phải nói là tôi chưa từng thấy ai cọ rửa như anh.”

Cô ấy không biết là tôi đang đánh cược cả tương lai của mình ở Starbucks để làm tốt một việc mà không ai muốn. Bằng cách đó tôi cho cô ấy thấy cô ấy không thể sa thải tôi. Tôi đã sợ mất công việc này đến mức ấy. Tôi không muốn thất bại trong cái cơ hội mà tôi cho là cuối cùng này. Độ tuổi trung bình của các Cộng sự trong cửa hàng là hai mươi. Tôi biết là tôi chả thể nào trẻ ra được thế nên tôi thật may mắn khi có được cơ hội này.

Nhưng không phải vì lớn tuổi mà tôi trở nên thông cảm hơn với người già và những người cần giúp đỡ. Hiểu và áp dụng hành vi của mình ở Starbucks không phải dễ. Nhất là lúc ban đầu.

Vào một buổi chiều, tôi vừa mới hoàn thành việc “dọn dẹp từng ngóc ngách” của nhà vệ sinh cho đến khi nó sáng bóng. Tôi nhìn thấy một người đàn ông người Mỹ gốc Phi lớn tuổi trông như vô gia cư đang hướng về phía nhà vệ sinh. Tôi chặn ông ấy lại và nói nhà vệ sinh đang đóng cửa để lau dọn – một lời nói dối mà tôi nghĩ ra vì sợ phải thu dọn cái đống lộn xộn mà ông ta có thể tạo ra.

Crystal nghe thấy và ra hiệu cho tôi đi vào văn phòng cô ấy – việc này không phải tín hiệu tốt. Tôi biết rằng cô ấy chẳng bao giờ la mắng ai trước mặt khách hay thậm chí những Cộng sự khác. Cô ấy sẽ kéo bạn ra nói chuyện riêng trong văn phòng của cô ấy.

“Mike, đừng bao giờ từ chối khi ai đó muốn dùng nhà vệ sinh,” cô ấy nói bằng giọng trầm và giận dữ.

“Nhưng ông già đó không phải khách hàng, ông ta không thể đủ tiền để trả” –

“Ông ấy có thể không phải là khách hàng nhưng bất kỳ ai bước vào cửa thì đều là khách. Điều này khiến Starbucks khác biệt so với bất kỳ chỗ nào ở New York này. Anh không để ý thấy là chả có cái nhà vệ sinh công cộng nào ở cái thành phố này à?”

Vì một lý do nào đó, có thể là bởi vì tôi đã làm việc rất chăm chỉ để dọn dẹp đống bẩn thỉu đó nên tôi đã cãi lại.

“Nhưng việc cung cấp nhà vệ sinh cho người vô gia cư không phải việc của Starbucks.”

Crystal không nói gì … trong khoảng ba mươi giây. Tôi có thể thấy cô ấy giận điên lên. Mắt cô ấy trừng lớn trong cơn giận dữ.

Tôi im luôn. Thế nào mà tôi lại giẫm lên đám mìn đầy cảm xúc chỉ trực bùng nổ này. Tôi thấy thật kinh khủng và sợ hãi.

“Nghe đây.” Giọng của cô ấy thật xa cách; tôi có thể cảm thấy cô ấy đang đấu tranh để không mắng tôi. “Trong cửa hàng của tôi, cửa hàng của chúng ta, chúng ta … chào đón mọi người. Đừng từ chối bất kỳ ai nếu họ muốn dùng nhà vệ sinh, đặc biệt là những người thật sự cần sự chào đón chứ không phải một kẻ nữa muốn khinh bỉ họ.”

Cô ấy đã không nói “không phải một kẻ da trắng nữa” khinh bỉ họ nhưng tôi có thể hiểu được nó có nghĩa đó. Hoặc có lẽ tôi đã quá nhạy cảm. Tôi hiểu rằng tôi đã mắc một sai lầm lớn. Crystal và Starbucks không đối xử với người ta như thế này.

Tôi đi ra ngoài cửa để cố gắng tìm người đàn ông đó nhưng ông ấy đã đi. Lời từ chối của tôi có lẽ chả phải lạ lẫm gì với ông ấy vì New York không phải là một thành phố thân thiện với những người cố gắng tìm một cái nhà vệ sinh. Nhưng tôi đã học được một bài học đắt giá ngày hôm đó. Sự ngạo mạn của tôi đã quay lại ngay khi tôi nghĩ mình đã làm được một việc ra trò. Thật đáng buồn!

Ngày hôm sau, Crystal cũng không nhắc lại việc đó nữa. Tôi biết được Crystal không để bụng. Cô ấy sẽ nói cho bạn biết khi không thích bạn làm việc gì đó ngay khi bạn làm điều đó. Và cô ấy không bao giờ nhắc lại nó.

“Giờ chúng ta sẽ chuyển ra khu vực bên ngoài,” cô ấy hướng dẫn. Cô ấy giao cho tôi lau sạch hành lang cùng với toàn bộ cửa sổ và cạnh cửa sổ.

Một tuần sau, cô ấy để tôi đứng một bên. “Tôi đã quyết định sẽ chuyển anh thành Giám sát viên của nhiệm vụ cọ rửa,” cô ấy tuyên bố. “Thỉnh thoảng tôi sẽ giao cho những Cộng sự khác giúp đỡ anh và anh có thể giám sát công việc.”

Tôi rất phấn khởi. Được thăng chức! Tôi đã được lập trình ở JWT để cảm thấy phấn khởi mỗi khi được thăng chức. Từ một người viết nội dung đến giám đốc sáng tạo rồi phó chủ tịch và cuối cùng là phó chủ tịch điều hành kiêm giám đốc sáng tạo là những khoảng khắc tuyệt vời. Mỗi lần thăng chức đều được tăng lương, nhận được những lời khen ghi đầy trong những mẩu giấy chúc mừng và những bữa tiệc tối ở nhà hàng sang trọng cùng với sự gia tăng về đặc quyền so với những người cùng trang lứa với tôi. Nhưng rồi tôi điếng người nhận ra rằng tôi không còn ở trong cái thế giới mà những điều đó có ý nghĩa. Đây không phải là một tập đoàn lớn với những nấc thang mà ở đó chức danh của bạn là quan trọng … Mày đang cọ rửa nhà vệ sinh đó, Chúa tôi! Tôi nghĩ và tự cười bản thân … thứ mà tôi chưa bao giờ làm trước đây.

Giờ đây đứng ở trong văn phòng nhỏ của Crystal, tôi hy vọng được làm nhiều công việc cọ rửa hơn. Như thế nghĩa là tôi lại có một ngày an toàn với cái quầy tính tiền.

“Này, Mike,” Kester nói khi lướt qua, “Anh làm ăn sao rồi?”

“Tốt,” tôi nói, “Tôi hy vọng được làm công việc cọ rửa ngày hôm nay.”

“Con mẹ nó, không đùa chứ,” Kester nói và chúng tôi phá lên cười trước cái kiểu ám chỉ không được phổ biến lắm của anh ấy.

Crystal xoay người trên ghế trước mặt cái máy tính để nhìn chúng tôi.

“Không dùng lời thô tục ở đây,” cô ấy nói, rõ ràng là không vui vẻ gì. Kester nháy mắt với tôi và tiếp tục đi ra ngoài.

“Cậu ta chỉ đùa thôi mà,” tôi nói một cách ngu ngốc. Kester chả cần tôi phải bảo vệ. Và Crystal thì đang cáu. Sao tôi không im miệng đi nhỉ?

“Mike, để tôi giải thích cho anh,” Crystal đẩy ghế lùi lại.

Cô ấy chỉ vào một tờ giấy được đính trên bức tường đằng sau tôi.

“Đó là tờ giấy ghi những quy tắc không thể thỏa hiệp của chúng tôi … hãy đọc cho tôi nghe quy tắc đầu tiên.”

Crystal nghe như một giáo viên đang giận dữ. Vậy thì tôi sẽ cho cô ấy thấy. Giờ tôi có thể đọc được rồi! Tôi đọc “quy tắc không thể thỏa hiệp” đầu tiên với giọng to, rõ và đầy tự tin: “Tạo ra một môi trường làm việc tuyệt vời và đối xử với nhau bằng sự kính trọng và nhân phẩm.”

Crystal đứng lên. Thậm chí khi tôi đã đọc nguyên tắc không thể thỏa hiệp đầu tiên của Starbucks một cách dõng dạc như vậy thì cô ấy vẫn bực bội vì điều gì đó.

“Sự tôn trọng,” cô ấy nói, lướt qua mặt tôi để chỉ vào từ đó. “Tôi không nghĩ sử dụng ngôn ngữ đường phố ở đây là tôn trọng.”

Cô ấy bỏ tay xuống và giọng thì trầm hơn.

“Mike, tôi không có ý định trút giận lên anh như thế này. Điều đó là không tôn trọng!” Cô ấy cười. Crystal có vẻ như đã lấy lại bình tĩnh.

“Đời thế đấy,” cô ấy nói, chậm rãi, kéo dài mỗi từ, “trước khi tôi đến đây, tôi chẳng được ai tôn trọng cả… lúc nào cũng thế. Tôi chưa từng được nghe từ đó. Mẹ tôi là một kẻ nghiện chất kích thích. Bà ấy chết khi tôi mười hai tuổi. Tôi được giao cho một người dì và dì cũng có hai đứa con.” Crystal vung tay lên trong một tư thế khoa trương. “Tôn trọng ư? Trong cái căn nhà điên rồ đó ư? Giờ thì tôi không oán bà ấy nữa vì tôi có thể thấy bà ấy lớn lên như thế nào nhưng tôi đã thực sự bị tổn thương vì bà ấy không cần tôi. Bà ấy chắc chắn là đã chả cho tôi tí tôn trọng nào. Dì tôi ghét tôi. Bà ấy ghét những người da trắng.”

Crystal nhìn tôi như thể muốn nói, Giờ thì anh hiểu ra chưa?

“Bà ấy gọi người da trắng là ‘kẻ thù’”. Có vẻ như Crystal đang cố khiến tôi kinh ngạc khi tiết lộ một người có thể thô lỗ đến mức nào.

Tôi bị sốc. Tôi hoàn toàn im lặng.

“Dì tôi không đối xử với tôi như kẻ thù nhưng bà ấy khiến tôi cảm thấy mình như một người xa lạ không được chào đón trong nhà. Vì tôi đến Starbucks nên tôi mới được chào đón.”

Crystal quay người và ngồi xuống, một lần nữa trở thành quản lý nhà hàng thư thái.

“Tôi xin lỗi,” tôi nói.

“Đừng xin lỗi, Mike. Thứ tôn trọng này có lẽ cũng mới đối với anh.” Cô ấy cười. “Tôi đã ở đây nhiều năm mà tôi vẫn thấy mới với chuyện này. Anh không thể hiểu nó chỉ trong một đêm. Tôi vẫn còn đang học đây này. Nhưng tôi muốn giải thích cho anh hiểu tại sao chuyện này lại quan trọng với tôi đến vậy.”

“Đúng, tôi để ý thấy mọi người ở Starbucks lịch sự hơn.”

Tôi để ý thấy từ ngày đầu tiên bước qua cánh cửa Starbucks tôi đã được đối xử với sự tôn trọng. Khi cần tôi làm điều gì đó, Crystal và các Cộng sự luôn nói, “Mike, anh có thể giúp tôi một việc không?” Chẳng bao giờ có mệnh lệnh nào được đưa ra. Tôi cũng nhận ra mình nhận được sự kính trọng cá nhân bởi vì đã xử lý tốt việc cọ rửa và một vài nhiệm vụ khó khăn hơn của công việc. Nhưng có lẽ Crystal nghĩ là tôi vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa của khái niệm tôn trọng.

“Những Cộng sự còn hơn cả lịch sự,” Crystal nói, phản ứng lại cái từ mà tôi đã sử dụng thay thế cho từ tôn trọng. Cô ấy rõ ràng là thất vọng với phản ứng của tôi. Tôi có thể thấy điều đó. Trong mắt Crystal tôi vẫn chưa thực sự hiểu điều đó. Sự lịch thiệp không phải là tôn trọng.

“Rồi anh sẽ hiểu thôi,” cô ấy nói, như thể đọc được ý nghĩ của tôi. “Nó sẽ mất chút thời gian. Này, tôi có một dự án cọ rửa cho anh hôm nay đấy … nếu anh thích? Chính là lau dọn cái văn phòng này.”

Cô ấy chỉ mọi thứ bao phủ bề mặt xung quanh cô ấy.

“Tôi rất sẵn lòng!” tôi hốt hoảng la lên. Lại một ngày dọn dẹp nữa – cách xa khỏi cái quầy thanh toán.

Crystal cười trước sự nhiệt tình của tôi.

“Tốt,” cô ấy nói. “Tôi sẽ chạy ra phía trước để kiểm tra và đảm bảo mọi thứ đều ổn. Và hy vọng lúc tôi quay lại thì chỗ này đã được dọn sạch!”

Crystal đứng lên và đôi giầy đen của cô ấy khiến tôi chú ý.

Cô ấy nhanh chóng đi ra phía ngoài. Cô ấy luôn làm mọi việc với một năng lượng tích cực.

Mình có thể hưởng ké một chút động lực tiến về phía trước đó, tôi tự nhủ.

Đột nhiên tôi nhớ đến người bạn của tôi là Gordon Fairburn, người luôn tràn đầy động lực tiến về phía trước trong cuộc đời quá đỗi ngắn ngủi của mình. Tôi mường tượng lại lần cuối đến thăm Gordon và khoảnh khắc lúc rời đi. Tôi đang ở trên con đường vào nhà cậu ấy và hướng về chiếc xe của mình. Cậu ấy nằm trên giường ở trên lầu, vây quanh bởi vợ và những đứa con và đang chết dần vì căn bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Cửa sổ phòng ngủ của cậu ấy mở rộng ra phía con đường vào nhà vào ngày xuân đó. Tôi nghe thấy cậu ấy cất giọng hát cao và tuyệt đẹp để hát một bài hát cũ cho tôi: “Mong những con đường hạnh phúc đến với anh … cho đến khi chúng ta gặp lại nhau!”

Tôi hát đoạn cuối với cậu ấy. Chúng tôi đã hát bài hát cuối cùng đó với nhau. Rồi tôi lên xe, giơ tay ra vẫy và lái đi. Chúng tôi đã cùng hát rất nhiều bài hát khi còn ở Buckley. Gordon là người bạn duy nhất của tôi ở đó. Chúng tôi còn học chung lớp ở Yale. Rất nhiều đêm ở New Haven đã kết thúc bằng cảnh Gordon ngồi bên chiếc đàn piano còn tôi và những đứa bạn khác thì tựa vào cây đàn và hát những bài hát cũ. Ngay cả khi đã tốt nghiệp chúng tôi cũng thích gặp nhau để cười và để hát. Gordon là người bạn lâu năm nhất của tôi. Cái ngày mùa xuân của vài năm trước, cậu ấy đang hấp hối. Giờ cậu ấy đã qua đời.

Tại sao tự nhiên tôi lại nghĩ đến cậu ấy sau khi Crystal nói chuyện với tôi chứ?

Một năm trở lại đây, khi mà cuộc đời tôi tan nát, tôi đã rất nhớ cậu ấy. Gordon luôn có khiếu hài hước thậm chí trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Cậu ấy thích dẫn lời một cô gái Áo mà cậu ấy yêu vào cái mùa hè chúng tôi tốt nghiệp. Khi chia tay, cô gái đã nói, “Đây là một bi kịch nhưng không quá nghiêm trọng.”

Gordon có cái nhìn rất tốt về mọi thứ. Tôi đi theo hướng quảng cáo còn cậu ấy thì theo học Thần học ở Yale và trở thành một bác sĩ trị liệu thành công, điều mà cậu ấy thích.

Gordon cũng giống Crystal khi cùng có tuổi thơ cơ cực. Bố cậu ấy là kẻ nghiện rượu và ly hôn với mẹ cậu ấy khi Gordon còn bé. Cậu ấy dễ bị tổn thương về thể chất. Nhưng cậu ấy luôn thích hát và yêu đời. Gordon sẽ thích biết mấy nếu vẫn còn sống! tôi nghĩ. Cậu ấy chắc sẽ thích giúp tôi giải quyết vấn đề, định hướng lại để thấy ánh sáng hy vọng. Cậu ấy sẽ thích có cơ hội để trải nghiệm những vấn đề của tôi ấy chứ.

Tôi bật cười. Âm thanh đó vang dội trong không gian nhỏ. Crystal và Kester vẫn ở phía trước với những Cộng sự khác. Đã đến lúc tôi mặc cái tạp dề xanh của mình, và bắt đầu giúp Crystal với dự án cọ rửa của cô ấy.

Có lẽ đã đến lúc tôi biết ơn khoảng thời gian có thêm này. Tôi vẫn còn sống chứ chưa qua đời như người bạn thân yêu của tôi. Tôi vẫn có thể hát và cười. Có lẽ, tôi nghĩ, tôi nên dành nhiều thời gian hơn để hát và cười và dành ít thời gian để khóc than về quá khứ.

Kỷ niệm của tôi về Gordon đã dũng cảm hát vang như thế nào ngay cả khi phải đối mặt với cái chết mười mươi đã khiến tôi hiểu ra mình ngu xuẩn đến thế nào. Tôi phải dừng việc quá xem trọng bản thân. Đúng vậy, tôi đã mất nhiều thứ. Tôi đã trải qua nhiều việc. Nhưng tôi vẫn còn sống và ở quán Starbucks này tôi được Crystal đối xử với sự tôn trọng. Tôi đã học được rằng có rất nhiều phẩm giá trong công việc vất vả này. Thậm chí là việc cọ rửa nhà vệ sinh! Tôi nên hát và cười nhiều hơn. Vì niềm kính trọng đối với Gordon và cuộc đời kỳ diệu đầy đầy sức sống của cậu ấy. Vì sự tôn trọng của Crystal và những gì cô ấy đã dạy tôi. Vì sự tôn trọng cho bản thân tôi và cuộc đời mới này.

 

Starbucks đã cứu cuộc đời tôi như thế nào – Chương 2

Chương 2: Sự thật phũ phàng

“Hãy tưởng tượng tất cả chúng ta đều giống nhau. Hãy tưởng tượng chúng ta đều có chung quan điểm chính trị, tôn giáo và đạo đức. Hãy tưởng tượng chúng ta đều thích một loại âm nhạc, nghệ thuật, đồ ăn và cà phê. Hãy tưởng tượng chúng ta đều có cùng vẻ ngoài. Nghe có vẻ nhàm chán nhỉ? Sự khác biệt không phải là thứ chia rẽ chúng ta. Hãy yêu quí sự đa dạng. Nhân phẩm là quyền con người của mỗi chúng ta.”

THÁNG TƯ

Một vài tuần khổ sở trôi qua và tôi vẫn không nhận được tin gì từ Crystal. Mỗi giây phút tôi đều mong chờ cuộc gọi của cô ấy trong lo lắng cố ý hoặc vô ý. Tôi tiếp tục đi đến quán Starbucks ở góc đường 78 và Lexington nơi chúng tôi đã gặp, hy vọng có thể nhìn thấy cô ấy ở đó nhưng cô ấy chưa bao giờ xuất hiện.

Tôi cũng tiếp tục gọi điện cho các khách hàng tiềm năng đối với công việc quảng bá của mình nhưng hộp thư thoại của tôi vẫn trống không. Hơn bất kỳ lúc nào, tôi cần một công việc, bất kỳ việc gì. Khi tôi gặp Crystal lần đầu tiên, tôi đã không thực sự nghiêm túc về ý tưởng làm việc tại Starbucks. Nhưng qua một vài tuần trở lại đây, khi đợi chờ cuộc gọi của cô ấy mà không có bất kỳ một lựa chọn nào khác để tôi hy vọng, thì tôi đã nhận ra rằng Starbucks có thể cho tôi một lối thoát – có lẽ là lối thoát duy nhất – để chi trả cho cuộc phẫu thuật não sắp tới và hỗ trợ đứa con trai bé bỏng và những đứa con khác của tôi. Để hỗ trợ bản thân tôi nữa. Tôi đang phải đối mặt với thực tế, ở cái tuổi già nua này, rằng tôi gần như không thể tự nuôi sống mình. Tôi đã để lại cho vợ trước căn nhà lớn và đang dùng đến những đồng tiền tiết kiệm cuối cùng và giờ tôi phải đối mặt với việc có thể không trả nổi tiền thuê nhà tháng sau. Tôi trở nên tuyệt vọng hơn vài tuần trước. Bất kỳ khi nào điện thoại của tôi reo, tôi đều khẩn cầu đó là Crystal.

Tôi đã làm gì sai trong buổi phỏng vấn ư? Tôi tự hỏi. Hay đã nói gì không đúng? Hay tôi không phải là người thuộc giới tính, dân tộc hay độ tuổi mà Crystal muốn làm việc cùng?

Khi ngồi chờ điện thoại reo, tôi nghĩ lại những buổi thử vai cho các quảng cáo trên truyền hình mà tôi đã thực hiện vài thập kỷ trước. Khi đó tôi đã không ngần ngại loại các ứng cử viên chỉ vì những lỗi nhỏ. Nếu một diễn viên nam có nụ cười quá sáng hoặc không đủ sáng, hoặc nếu một cô gái trẻ có giọng không chuẩn, thì người đó sẽ bị loại. Khi tuyển dụng, tôi chọn những người giống mình, với bối cảnh gia đình giống mình. Giờ đây khi mỗi ngày lại trôi qua mà Crystal vẫn không gọi thì tôi càng chìm sâu vào cái cảm giác rằng có thể Crystal cũng nghĩ theo cách đó: Làm việc dễ dàng và tránh xa những người khác mình.

“Sự đa dạng” là một từ ngữ vĩ đại trong thời đại ngày nay. Nhưng rất ít người mà tôi biết thật sự vượt qua được tầng lớp xã hội và bối cảnh gia đình – đặc biệt là trong việc tuyển dụng người sẽ làm việc với họ mỗi ngày. Ở các tập đoàn Mỹ, sự đa dạng là một mục tiêu hấp dẫn mà mọi người biết làm thế nào để thực hiện nhưng rất ít người thực sự làm được điều đó. Thực chất nó chỉ là một từ mà chúng ta thảo luận theo một cách mơ hồ khi chính phủ đang nghe ngóng.

Hy vọng duy nhất của tôi là Crystal cần đủ nhiều nhân viên mới – hoặc đủ can đảm – để cho tôi một cơ hội. Điều này có quá mỉa mai không khi tôi lại đi hy vọng rằng Crystal sẽ nhân từ hơn tôi?

Tôi ép bản thân không được nghĩ đến chuyện này. Và rồi một ngày khi tôi đang ở ga Grand Central, điện thoại của tôi reo vang.

“Mike?”

“Đúng?” tôi trả lời với giọng ngờ vực. Giọng của người ở đầu dây bên kia không giống bất kỳ ai mà tôi biết.

“Tôi là Crystal.”

Thái độ cảnh giác của tôi lập tức thay đổi.

“Ồ, xin chào!” tôi nói một cách nhiệt tình. “Thật tốt được nghe giọng cô!”

“Anh có cần một công việc nữa không…,” cô ấy dừng lại và tiếp tục một cách thật ngầu, “làm việc cho tôi?” Nghe như thể cô ấy rất sẵn lòng nghe một câu trả lời không và tiếp tục ngày làm việc của mình. Tôi tưởng tượng cô ấy có một danh sách những ứng viên tiềm năng mà cô ấy đang nghiên cứu. Và hầu hết những người trong danh sách này có lẽ đều phù hợp làm việc cùng cô ấy hơn là tôi.

“Có, tôi thực sự muốn làm việc với cô,” tôi gần như hét vào điện thoại. “Tôi mong đợi được làm việc với cô và nhóm của cô.”

Bình tĩnh lại, Mike, tôi tự nói với bản thân như vậy. Đừng có tỏ ra nhiệt tình quá. Và tại sao tôi lại nói đến “nhóm” nhỉ? Crystal đã nói về “cộng sự”. Tôi biết rằng mỗi công ty có một ngôn ngữ riêng mà bạn phải theo nếu bạn muốn được đối xử tốt. Tôi đang muốn hòa nhập vào môi trường này đến phát điên lên được. Bình tĩnh lại, tôi nói với bản thân mình, hoặc là mày sẽ thổi bay cơ hội cuối cùng này đi mất.

Nhưng có vẻ điều này chẳng quan trọng – Crystal không thực sự lắng nghe. Bạn có biết khi bạn đang nói chuyện với ai đó trên điện thoại và người đó chỉ vờ lắng nghe khi mà họ đang làm điều gì đó khác họ cho là quan trọng là như thế nào không? Tôi đã cảm thấy như vậy vào cái ngày đó khi nói chuyện với Crystal. Đối với tôi, cuộc gọi này là vô cùng quan trọng. Đối với cô ấy thì đây chỉ là một trong những việc cần làm trong một ngày bận rộn thôi.

Cái cách bình thản mà cô ấy cho tôi một công việc thật là một điều sỉ nhục.

“Được rồi,” cô ấy nói. “Hãy đến cửa hàng của tôi ở góc phố 93 và Broadway vào lúc ba giờ rưỡi chiều mai.”

“Góc phố 93 và Broadway?” tôi lặp lại, ngạc nhiên bởi địa chỉ nơi đó.

“Đúng.” Cô ấy nói như thể cô ấy đang hướng dẫn một đứa trẻ ba tuổi. “Chín mươi ba … và … Broadway, và đừng đến muộn đấy.”

Tôi hơi bối rối. “Nhưng chúng ta gặp mặt ở cửa hàng góc phố 78 và Lex cơ mà.”

“Thì sao?” Cô ấy nghe như thể đang đe dọa. “Tôi gặp anh ở đó vì chúng tôi có một buổi tuyển dụng ở đó. Đó là cách mọi việc được thực hiện ở Starbucks.”

Crystal đang dùng cái giọng mà tôi biết rõ. Tôi đã dùng cái thái độ cứng nhắc chỉ có trong các doanh nghiệp đó khi đuổi những người mà tôi không muốn gặp.

“Ở Starbucks,” cô ấy tiếp tục, “chúng tôi chọn một cửa hàng, mở một buổi tuyển dụng, và quản lý của các cửa hàng đang cần người sẽ đến phỏng vấn ứng viên. Nhưng thế không có nghĩa là anh sẽ làm việc tại cửa hàng đó. Tôi là quản lý của cửa hàng ở đường Chín mươi ba và Broadway.” Cô ấy ngừng lại và nói tiếp, “Anh có vấn đề gì với việc đó không?”

Cô ấy lại dùng cái giọng đe dọa đó một lần nữa. Có hay không? Cô ấy còn những người khác trong danh sách để gọi và đang rất sẵn lòng kết thúc cuộc gọi này. Tôi có thể cảm thấy cô ấy chẳng thích lắm việc đề nghị cho tôi công việc này.

“Không có vấn đề gì,” tôi nhấn mạnh để đảm bảo với cô ấy. “Tôi sẽ có mặt ở đó đúng giờ vào ngày mai.”

Tôi nghe như thể – thậm chí chính tôi cũng thấy thế – một lão già nói chuyện như một đứa trẻ mới đến trường. Thật xấu hổ!

“Nếu anh muốn làm việc, hãy mặc quần đen, giầy đen, và một cái áo trắng. Có vấn đề gì không?”

“Được,” tôi trả lời.

Cô ấy cúp máy. Thậm chí cô ấy còn chẳng nói tạm biệt.

Chết tiệt! Cuộc gọi ngắn ngủi đó khiến tôi thật căng thẳng. Trong vài tuần trở lại đây, khi mà thực tế của cuộc sống khó khăn càng trở nên rõ ràng hơn đối với tôi, thì tôi cố gắng bắt lấy bất kỳ dấu hiệu nào về việc tôi có thể có cơ hội duy trì vị trí của mình ở tầng lớp trên của xã hội Mỹ thay vì rớt không phanh xuống những tầng đáy – để tránh bị chìm ngỉm trong nỗi tuyệt vọng. Những ngày qua khi chờ đợi cuộc gọi của Crystal, cái viễn cảnh phải làm việc tại Starbucks khiến tôi vô cùng xấu hổ nhưng tôi tự nói với bản thân rằng ít nhất tôi được làm gần nơi tôi đã lớn lên. Đó là một khu vực tốt. Nơi đó sẽ an ủi tôi trong quá trình chuyển đổi từ tầng lớp thống trị xuống tầng lớp phục vụ. Trong sự suy sụp rõ ràng đến không thể chối cãi của bản thân về mặt tài chính và cả địa vị xã hội thì con phố Bảy mươi tám là một niềm an ủi nho nhỏ.

Dù là nó ở đâu đi chăng nữa thì tôi cũng chưa bao giờ đi đến khu vực đường Chín mươi ba và Broadway cả. Nguyên tắc của tôi khi sống ở New York City là không bao giờ đi lên quá đường Mười chín phía đông hoặc xuống quá Grand Central. Giờ thì tôi chuẩn bị làm việc tại cái nơi mà tôi hình dung là một khu vực rất nguy hiểm. Nơi đó rõ ràng là xa khu vực Bờ Đông thượng Manhattan, nơi mà tôi coi là nhà.

Và tôi cũng không thích thái độ của Crystal đối với tôi. Cô ấy làm như tôi là thằng ngốc không bằng. Tôi cảm thấy cô ấy rất không công bằng. Và rồi tôi hối hận khi nhớ ra mình cũng từng đối xử với một cô gái trẻ người Mỹ gốc Phi làm việc cho tôi tại JWT với cùng một kiểu thái độ khinh khỉnh đó. Jennider Walsh được tuyển trong chiến dịch tuyển dụng những người thuộc bộ phận thiểu số mà chúng tôi thực hiện hồi thập niên Bảy mươi. Đó là một biểu hiện, một nỗ lực ngắn hạn của chúng tôi để thực hiện việc đa dạng hóa.

Chỉ đơn giản bởi vì cô ấy là một phần của chiến dịch tuyển dụng những người thuộc tầng lớp thiểu số này, Jennifer khiến tôi nghi ngờ khả năng của cô ấy. Tôi được giao nhiệm vụ làm người hướng dẫn cho cô ấy. Thế nhưng cho đến tận sau cuộc gọi của Crystal ở Grand Central, tôi chưa bao giờ hiểu cái cảm giác bị bỏ qua chỉ bởi sự khác biệt về hoàn cảnh. Trái tim tôi nặng trĩu khi tôi nhận ra mình đã có thái độ đầy định kiến như thế nào đối với những người có hoàn cảnh khác biệt với mình ở JWT. Ở công ty, chúng tôi đều thích thú cái sự thật là hầu hết mọi người đều học ở các trường danh tiếng và lâu đời. Chúng tôi nghĩ mình chính là tinh anh của giới quảng cáo. Chúng tôi đều cho rằng việc tuyển dụng bất kỳ ai không tốt nghiệp các trường tốt nhất của tốt nhất đó thì đều khiến thứ hạng của chúng tôi bị tụt theo – và rất nhiều những người như thế được tuyển trong chiến dịch đó.

Jennifer rất dễ thương nhưng cô ấy chỉ tốt nghiệp chương trình hai năm ở trường cao đẳng và tôi chưa bao giờ coi công việc của cô ấy ở JWT là nghiêm túc. Tôi đã bảo cô ấy đọc các quảng cáo trong vài tuần mà chẳng thèm hướng dẫn cô ấy viết bài nào. Sau đó tôi giao cho cô ấy nhiệm vụ viết một bài quảng cáo trên báo cho Ford. Đó là quảng cáo đầu tiên của cô ấy.

Jennifer tới văn phòng của tôi. Rõ ràng là cô ấy sợ đến cứng đờ khi tiến về phía chiếc bàn làm việc lớn của tôi. Điều này càng khiến cho tôi nghĩ rằng cô ấy không hợp với JWT vì chúng tôi phải cho khách hàng thấy sự tự tin của mình. Tôi đã đổ lỗi cho Jennifer chỉ vì cô ấy cảm thấy bất an trong môi trường hoàn toàn mới này. Khi đọc bản nháp quảng cáo của cô ấy, tôi nhận ra cô ấy đã chép lại y nguyên một đoạn từ một quảng cáo khác của Ford mà tôi đã đưa cô ấy đọc. Đây chính là cái kiểu đạo văn bị ghét cực kỳ ở JWT. Có lẽ bởi vì chúng tôi là những người viết nội dung nên chúng tôi không thể chịu nổi việc ai đó chép lại lời của người khác. Jennifer đã phạm phải một tội không thể bỏ qua trong khi làm việc. Ít nhất đó là những gì tôi thấy được lúc đó.

Giờ nghĩ lại, tôi nhận ra cô ấy có lẽ không biết điều đó là vi phạm quy định và tôi tất nhiên cũng chẳng chỉ ra cho cô ấy. Tôi thậm chí còn chẳng thèm cân nhắc lại. Lỗi lầm ngu xuẩn này của cô ấy đã cho tôi một cái cớ. Tôi đi thẳng tới ban quản lý và nói với họ rằng Jennifer có thể sẽ là một thư ký tốt một ngày nào đó nhưng cô ấy không có “những thứ cần thiết” để nắm bắt thứ nghệ thuật cao siêu của quảng cáo. Tôi không có thời gian cho cô ấy và cả cái ý tưởng đa dạng hóa.

Sau khi chứng kiến sự hờ hững của Crystal trong việc xử lý cái cơ hội việc làm mà với tôi thì vô cùng quan trọng, tôi nhận ra trong sợ hãi rằng mình thật tàn nhẫn biết bao khi “giúp đỡ” Jennifer. Tôi đã từng là một kẻ đạo đức giả trong đám những kẻ cổ hủ tự tung hô bản thân vì đã tin tưởng vào cái lý thuyết về sự tiến bộ của tầng lớp thiểu số, trong khi thực tế lại làm mọi thứ có thể tại nơi làm việc – nơi mà tôi có quyền kiểm soát – để lý thuyết này không thực hiện được. Dù cố ý hay vô ý thì tôi cũng đã làm hỏng nỗ lực của Jenniver khi muốn hòa nhập vào cái thể giới nhỏ của tôi chỉ bởi vì cô ấy là người Mỹ gốc Phi và không có được sự giáo dục cũng như kinh nghiệm mà tôi coi trọng.

Jennifer sau đó bị chuyển sang làm công việc văn phòng nào đó ở bộ phận nhân sự và tôi hoàn toàn quên mất cô ấy cho đến giờ phút này. Giờ tôi cảm thấy thật kinh khủng. Tôi tưởng tượng việc Crystal coi tôi là một lão già da trắng ngu ngốc mà cô ấy đã sai lầm khi cho tôi một công việc. Tôi sẽ không hợp với thế giới của cô ấy hoặc không đủ tốt để đáp ứng những yêu cầu của cô ấy – đúng như những gì tôi cảm nhận về một cô gái Mỹ da đen trẻ tuổi vài thập niên trước.

Tôi cũng muốn tự đá bản thân vì đã không nghe lời con gái mình, Laura, trong suốt nhiều năm. Laura có mái tóc màu nâu rực rỡ tôn lên đôi mắt màu hạt dẻ lấp lánh. Và giờ tôi vẫn có thể nhớ lại hình ảnh con bé lắc đầu trong giận dữ vì tôi không chịu “hiểu vấn đề”. Con bé đã dành nhiều thời gian để giới thiệu cho tôi một cách nhìn nhận thực tế hơn về thế giới và bởi vì tôi quá là không tinh tế, tôi đã không lắng nghe con bé. Laura có một thứ năng lượng thật tích cực và linh hoạt; con bé có thể cười một cách dễ dàng nhưng nó vẫn có cảm nhận về sự bất công trong cuộc sống. Trong quá trình trưởng thành, con bé đã nhìn nhận những nỗ lực vì người Mỹ gốc Phi là hành động mang tính khẳng định. Con bé sẽ ngồi đối diện tôi trên bàn ăn tối, xoắn lọn tóc xinh đẹp trong giận dữ khi chúng tôi tranh cãi. Tôi đã coi cảm giác và ý tưởng của con bé về việc làm thế nào để giúp đỡ những người kém may mắn hơn là “ngây thơ một cách vô vọng”. Tôi cảm thấy an toàn khi bọc mình trong lớp bong bóng của sự tự tâng bốc: tôi tự thuyết phục bản thân rằng công việc hàng đầu trong ngành quảng cáo và sự sung túc mà tôi đạt được là phần thưởng bởi vì tôi là một người thông minh và tài năng … chứ không phải chỉ đơn giản vì địa vị và sự thành công mà tôi nhận được ngay khi sinh ra và vì màu sắc may mắn trong cái thế giới bị thống trị bởi “những gã đàn ông da trắng trung niên cùng thế hệ với bạn” như Laura đã từng gọi. Laura và tôi có những cuộc tranh cãi triền miên trong suốt khoảng thời gian con bé trưởng thành. Dường như từ khi con bé mười tuổi, nó đã coi cái phong cách sống đầy vương giả của tôi là một thứ đáng bị phản đối trong khi nhiều người khác không có được nhiều như vậy.

Thậm chí bây giờ khi đã học đại học thì con bé cũng chưa bao giờ đánh mất sự đồng cảm đối với những người kém may mắn hơn mình. Con bé thực tế là đã khóc khi tôi đưa nó đến ngôi trường đại học trong mơ mà tôi đã chọn cho nó.

“Có chuyện gì nào?” tôi hỏi con bé. Tôi đã nỗ lực rất nhiều để con bé có thể vào được trường này, thậm chí cả việc gọi điện cho một người ủy thác để nói vài lời tốt đẹp tôi cũng đã làm.

“Cái nơi này không có sự đa dạng”, con bé nói, đấu tranh để thể hiện sự bực bội với tôi và thái độ đặc quyền của tôi khi con bé chỉ một đám sinh viên mới người da trắng đang đổ vào khu ký túc mới xây đẹp đẽ mà con bé sẽ ở lại. “Bố vẫn không hiểu!”

Giờ tôi nhận ra trong đau đớn việc tôi đã sai đến thế nào khi cố gắng bóp nghẹt quan điểm của Laura về “thế giới chân thật”, một nơi bất công đối với những người không sinh ra đúng tầng lớp xã hội, màu da và không đủ khả năng chi trả cho việc giáo dục mà họ xứng đáng. Trái tim tôi thực sự đau đớn khi nhận ra trong nuối tiếc về sự giả định của bản thân rằng Chúa tạo ra tôi và những người giống tôi để thống trị vì chúng tôi đáng giá hơn những dân tộc khác. Cuối cùng thì giờ đây tôi cũng đang “dần hiểu” điều đó khi tôi phải đối mặt với một thực tế mới của cái thế giới mà không có những đặc quyền được thừa hưởng.

Nhưng liệu những kiến thức khó khăn lắm tôi mới học được này có đến quá muộn để thay đổi cuộc đời tôi hay không?

Có lẽ đây là một cái nghiệp, tôi nghĩ. Và tôi thật là đáng đời mà. Nhưng mà tôi không định từ chối lời mời làm việc của Crystal – dù thái độ của cô ấy có là gì đi nữa.

Hôm sau tôi dậy sớm và đột nhiên nhận ra rằng mình sắp đón sinh nhật lần thứ sáu tư trong vài tuần nữa. Người ta nói tháng Tư là tháng dễ chịu nhất trong năm và khi tôi đang cố tròng cái quần đen vào để đi làm ở Starbucks, tôi đã lắc đầu ngán ngẩm vì có lẽ tôi sẽ đón sinh nhật của mình bằng công việc phục vụ cà phê thấp kém.

Tôi không biết nên khóc hay nên cười với cái cảm giác lo sợ của mình khi tôi chạy vội khỏi căn hộ rẻ tiền ở khu ngoại ô của mình để bắt chuyến tàu tới Grand Central. Rồi tôi lại chạy nhanh nhất có thể trong dòng người hối hả để đón tàu điện ngầm đến Quảng trường Thời Đại. Mặc dù cứ vài phút lại có một chuyến tàu nhưng chúng tôi vẫn cố ép người lên chuyến tàu trước mặt như thể đó là cơ hội cuối cùng để đi đến đâu đó trong ngày hôm nay. Tôi không thể tưởng tượng được đám đông di chuyển nhanh đến thế nào – cứ như thể chúng tôi đang ở trong cuộc thi chạy một trăm mét của một kỳ Olympic. Sao phải vội vàng nhỉ? Tôi không dùng phương tiện công cộng để đi làm trong nhiều năm và lúc trước tôi toàn bắt taxi hoặc đi xe cơ quan khi mà tôi càng ngày càng leo cao trên nấc thang đặc quyền ở JWT. Tôi chưa bao giờ phải đi tàu điện ngầm cả. Nhưng giờ đây tôi chẳng có nghi ngờ gì về cái sự điên rồ của dòng người di chuyển này – tôi cũng phải chạy cùng với họ.

Từ Quảng trường Thời Đại, tôi chuyển qua một chuyến tàu đông đúc khác để đi đến phố Chín mươi ba. Lúc cố ép bản thân mình vào trong khi tàu đóng cửa, tôi nhận ra mình đang ép lên những người khác, những người mà tôi sẽ chẳng bao giờ muốn biết họ là ai; và bị buộc phải có những tiếp xúc cơ thể với họ. Những gương mặt đều không quen thuộc. Làm thế nào mà cuộc đời mình lại đi đến chỗ này chứ? Tôi nghĩ. Rất nhanh, cửa mở và tôi bị buộc phải bước ra sân ga bẩn thỉu bên ngoài. Tôi trèo lên những bậc thang dốc để đi ra con phố Chín mươi ba với trái tim đập ầm ầm, mồ hôi túa ra mặc dù đó là một ngày lạnh đầu tháng tư.

Khi ra khỏi bến tàu điện ngầm, tôi phải chống chọi với những cơn gió và sau đó lảo đảo đi đến cửa hàng Starbucks ở góc đường Broadway. Mưa lạnh cóng khiến con đường trở nên trơn trượt. Tôi chợt dừng lại. Giờ tôi đã ở trước cửa hàng, tôi lại chẳng vội vàng để mở cửa.

Khi tôi nhìn chằm chằm cái biển hiệu Starbucks, thực tế phũ phàng của hoàn cảnh quất tới khiến tôi thấy ốm. Tôi tê tái, đứng trên vỉa hè lạnh giá ở một nơi không quen thuộc trong thành phố này. Giấc mơ một lần nữa gia nhập một tập đoàn quốc tế để trở nên giàu có, quyền lực và hạnh phúc giờ đã trở thành một cơn ác mộng ê chề. Vâng, đúng là tôi sẽ tham gia vào một tập đoàn đa quốc gia lớn nhưng thực tế là làm ở vị trí của một gã bồi bàn với một cái tên bóng bẩy. Ở nơi công cộng này tôi sẽ phải xấu hổ khi người ta biết Michael Gates Gill lại mặc như bồi bàn và phục vụ đồ uống cho những người có thể là bạn hoặc từng là khách hàng của tôi. Nó giống như việc những người hành hương ngày xưa trói tội phạm vào gốc cây ở quảng trường công cộng để làm ví dụ răn đe những người khác.

Như trưởng lão Thanh giáo Jonathan Edwards đã nói: “Chúng ta đều là con rối được treo trên một sợi tơ nối với bàn tay của chúa trời đang giận dữ.” Có lẽ có một vị chúa của Thanh giáo đang giận dữ đã quyết định trừng phạt mọi lỗi lầm của tôi. Mỗi phút giây của vài năm qua, tôi đã phải chịu gánh nặng tội lỗi khi làm tổn thương những người mà mình yêu quí. Đó là vợ cũ của tôi, con tôi và vài người vẫn còn là bạn của tôi. Tổ tiên Thanh giáo của tôi chắc sẽ nổi giận với tôi. Đúng vậy, tôi nghĩ chắc là có vị Chúa cáu kỉnh nào đó mà tôi đã mạo phạm.

Nhưng tôi phải công nhận rằng cái thực tế mà tôi phải đối mặt trần tục hơn thế. Tôi không thể giả vờ như mình đang trải qua một cuộc hành trình thần bí như trong kinh thánh. Không phải tôi đang làm một thể loại công việc hiện đại nào đó; tôi đang tìm việc. Và tôi phải đối mặt với thực tế phũ phàng hàng ngày rằng tôi ở đây vì chính sự quản lý tài chính tồi tệ, và nhu cầu tình dục của mình đã khiến tôi rơi vào cảnh bơ vơ này. Tôi chả phải người đặc biệt gì để được Chúa phán xét riêng. Thật là đau đớn khi phải thừa nhận tôi còn chưa phải đặc biệt đến mức ấy. Rất khó để tôi có thể từ bỏ cái cảm giác về một nơi đặc biệt trong thế giới này.

Giờ tôi bị buộc phải nhìn nhận một thực tế mới: những gì mà tôi đang trải qua – một kẻ đã quá già để đi tìm việc – là thực tế mà hàng triệu người Mỹ có tuổi đang phải đối mặt khi không thể tự nuôi sống bản thân và không trụ nổi trong các tập đoàn lớn. Trong tình trạng đầy lo lắng, mâu thuẫn và nỗi hổ thẹn không mong muốn, tôi mở cánh cửa vào cửa hàng Starbucks.

Bên trong, mọi thứ đều ấm áp và ồn ào một cách có trật tự. Một hàng khách dài ra đến gần cửa đang đứng đợi. Những bà mẹ bế con trên tay với xe đẩy. Nhân viên văn phòng thì đang kiểm tra điện thoại. Lũ học sinh thì đang lôi kéo cặp sách. Sinh viên đại học thì mang theo máy tính. Tất cả đều bồn chồn chờ đợi được phục vụ latte.

Khi tôi nhìn những người phụ vụ bên kia quầy bán hàng, nỗi lo lắng của tôi được xác nhận: tất cả các nhân viên đều là người Mỹ gốc Phi. Rõ ràng là ở đây không có sự đa dạng. Điều này không phải điều ngạc nhiên đối với tôi, bởi vì tôi đã để ý thấy nó khi đến thăm nhiều cửa hàng Starbucks khác nhau sau buổi phỏng vấn với Crystal. Sự thật là không có nhiều người da trắng làm việc cho các cửa hàng của Starbucks ở New York.

Lần đầu tiên trong đời tôi biết mình sẽ trở thành một thành viên nổi bật nhất trong một cộng đồng thiểu số thực sự. Tôi sẽ làm việc với những người có hoàn cảnh, giáo dục, tuổi tác và dân tộc hoàn toàn khác với mình.

Và từ thực tế những gì đang diễn ra trong cửa hàng, rõ ràng là tôi sẽ phải làm việc vô cùng vất vả. Có ba nhân viên đang vất vả đóng mở quầy tiền, nhận tiền và nhanh chóng hô to tên các loại đồ uống cho nhân viên ở quầy pha chế. Nhân viên ở quầy pha chế thì nhanh chóng lặp lại tên các loại đồ uống trong khi pha chế chúng một cách thành thạo, đong đếm những cốc sữa nóng và rót cà phê. Với tốc độ đặt hàng như tên lửa, họ phục vụ thức uống cho khách hàng kèm theo lời chúc đầy năng lượng đến gần như là hét lên “Chúc ngon miệng!” Khách hàng sẽ tự với tay lấy đồ uống của mình với niềm khao khát mãnh liệt.

Cái công việc kinh doanh cà phê này rõ ràng không phải là việc bình thường với bất kỳ ai – ở cả hai đầu của quầy bán. Có một nhịp độ điên cuồng và những ồn ào cố ý như trong một cuộc chạy đua với thời gian. Tôi chưa bao giờ giỏi thể thao cả và cửa hàng này có cái không khí thi đấu của những người đang vận hành nó với adrenaline dâng tràn. Phải gọi tên và lặp lại tên các loại đồ uống, có vẻ như tôi sẽ tham gia một buổi thử giọng cho một vở nhạc kịch Ý ồn ào.

Đột nhiên tôi thấy lo lắng. Không chỉ về sự khác biệt liên quan đến dân tộc, tầng lớp và tuổi tác. Giờ tôi có một mối quan tâm cơ bản hơn. Tôi vốn nghĩ công việc ở Starbucks nằm dưới khả năng mà tôi có. Nhưng giờ tôi nhận ra có lẽ nó vượt quá những khả năng đó. Công việc này có thể là một thách thức thực sự đối với tôi cả về tinh thần, cảm xúc và thể chất.

Tôi chưa bao giờ giỏi về xử lý tiền bạc – đó là lý do chính mà giờ tôi cần một công việc đến thế. Toán là môn học mà tôi chưa bao giờ giỏi ở trường. Tôi vẫn còn nhớ rõ ràng những lần các giáo viên toán khác nhau phải thốt lên rằng “nhưng bài này rất dễ mà” khi họ viết lên bảng một phương trình nào đó. Tôi ghét những giáo viên đó vì sự thông thái của họ. Thậm chí những phép tính cộng, trừ đơn giản nhất cũng là thách thức đối với tôi. Giờ đây cái thực tế là các nhân viên đang tính toán tiền với tốc độ nhanh chóng ở quầy bán của Starbucks khiến tôi thấy sợ hãi.

Tôi đã mất khả năng nghe ở một bên tai vì khối u não. Thế nên việc nghe được những cái tên phức tạp của các loại đồ uống có thể là một vấn đề khó khăn đối với tôi. Tôi cũng sợ hãi cái ý nghĩ phải hiểu được những yêu cầu đặt hàng lắt léo và gọi ra đúng những yêu cầu đó trong thời gian tính bằng giây. Ngôn ngữ chưa bao giờ là kỹ năng mà tôi có. Giáo viên tiếng Pháp của tôi ở Yale đã nói, “tôi sẽ cho anh qua với một điều kiện: anh đừng bao giờ đi tra tấn bất kỳ ai trong cái trường này với cái giọng đó của anh.” Nhưng giờ đây rõ ràng là tôi phải làm chủ được thứ ngôn ngữ ngoài hành tinh của Starbucks.

Trong ấn tượng đầu tiên đó, tôi nhận ra với một cảm giác ê chề rằng công việc mới của tôi có thể là một bài kiểm tra mà khả năng lớn là tôi sẽ trượt. Tôi đã mặc một chiếc quần đen với áo trắng và không thắt cà vạt. Tôi cảm thấy cô đơn và sợ hãi. Và rồi Crystal xuất hiện như một cơn lốc đầy năng lượng tích cực.

“Cùng uống một ly cà phê nhé,” cô ấy nói và dẫn tôi qua một cái bàn nhỏ ở trong góc. “Ngồi đây nhé, tôi sẽ mang cho anh thử một cốc cà phê mẫu.”

Có thể đây chỉ là thái độ chuyên nghiệp mà Crystal thể hiện trước mọi người nhưng tôi vẫn thấy biết ơn. Tôi nghĩ, có lẽ cô ấy đã thảo hiệp với việc thuê tôi và không thấy căm ghét bản thân hay tôi vì đã chấp nhận cơ hội này.

Tôi nhanh chóng ngồi xuống cái góc nhỏ với Crystal và nhấp một ngụm Sumatra ngon tuyệt. “Cái này là một loại cà phê được biết đến với hương vị của “đất mẹ”… nhưng tôi lại gọi nó là bùn đất.” Crystal cười và tôi cũng cười theo. Ngày hôm nay Crystal đội một cái mũ của Starbucks với búi tóc được giấu bên trong khiến cô ấy trông tinh tế, thậm chí lôi cuốn. Bông tai kim cương trên tai cô ấy lấp lánh.

Có lẽ là cà phê, mà phần nhiều có thể là khả năng của Crystal khiến tôi thấy thoải mái hơn rất nhiều.

Nhưng tôi còn xa mới cảm thấy thoải mái. Bất chợt, tôi nhớ về hình ảnh của mình lâu trước đây khi đang tắm nắng với gia đình và bạn bè trên một cái cầu cảng ở hồ tại Connecticut. Giờ thì hình ảnh nằm dài và cười đùa thật thoải mái dưới ánh mặt trời ấm áp dường như đã từ những kiếp trước. Cái hồ nơi tôi lớn lên được vây giữa hàng mẫu Anh đất rừng tư nhân. Nó được tách rời khỏi thế giới xô bồ và ấp ủ tôi với niềm vui và những đặc quyền.

Tôi còn nhớ thời mình là cậu bé nhỏ ném táo vào nhà thơ Ezra Pound. Jay Laughlin, nhà xuất bản của Pound, chủ của khu cắm trại bên cạnh đã đưa Pound đến khu vực hồ ngày hôm đó. Pound ngồi yên như một bức tượng ở cuối cầu cảng. Có một lúc, ông ấy đã xắn quần lên và khua đôi chân trắng trong nước, tất nhiên vẫn không nói gì. Chân ông ấy trông như cái bụng trắng của một con cóc. Có cái gì đó trong sự xa cách đáng tự hào của Pound khiến tôi và anh em họ của mình thấy hứng thú. Chúng tôi nhặt vài quả táo mà chúng tôi đang ăn dở và bắt đầu ném chúng vào ông ấy. Tuy trượt nhưng những quả táo cũng khiến nước bắn tóe lên bộ quần áo ngoại quốc màu tối của ông ấy.

Ezra Pound không nói cũng không di chuyển. Cha tôi cười và ngầm ủng hộ hành vi của chúng tôi. Cha tôi đã viết trong cuốn sách bán chạy của ông, Nơi đây trong cuộc sống của người New York, về những năm tháng ông dành để viết tạp chí. Ở phần mở đầu, ông đã đưa ra quan điểm triết lý của mình: “Quy tắc đầu tiêu của cuộc đời là phải vui vẻ. Không còn quy tắc thứ hai.” Vui vẻ với bố tôi nghĩa là phá hỏng những thùng táo. Ông không thích quan điểm chính trị của Pound và việc ông ấy thưởng thức cảnh đẹp.

Cha tôi có thể đến hồ này bởi vì ông cưới mẹ tôi và gia đình mẹ tôi đã đi nghỉ ở đây trong hàng trăm năm. Cha tôi mang những đồng tiền mà người cha gốc Ai-len nhập cư vào Mỹ của ông đã kiếm được để ủng hộ dòng họ Mayflower của mẹ tôi. Cái hồ đó, nơi tràn đầy sự lịch thiệp của những nhóm người da trắng cao quí, quyền lực, rất hợp với phong cách nổi loạn mang tính khiêu khích cố ý kiểu Celtic của bố tôi. Với kiểu cách phớt lờ mang tính tự chủ trương, bố tôi thoải mái sử dụng số tiền mà cha ông ấy đã phải làm việc vất vả mới kiếm được.

“Tốt nhất nên tiêu tiền khi còn sống,” cha tôi tuyên bố như vậy với đôi mắt lấp lánh sự nhiệt tình kiểu có quỷ mới quan tâm. Dường như ông đang mỉa mai tài sản mà cha ông đã vất vả tích cóp và cả những người có nguồn gốc Bắc Mỹ ở xung quanh khu hồ, những người luôn căng thẳng tích cóp từng xu.

Cha tôi thích nói, thích viết và trên tất cả ông thích trở thành tâm điểm chú ý của các bữa tiệc. “Mọi thứ xảy ra tại các bữa tiệc,” ông luôn nói vậy. Vì vậy các bữa tiệc liên tiếp diễn ra tại cầu cảng của cái hồ mộc mạc nhưng độc đáo đó.

Cha tôi tiêu xài phung phí thời gian với tất cả những tài năng của bản thân. Ông ấy cống hiến cho những thứ khác nhiều đến nỗi không có đủ thời gian ở nhà với tôi. Chúng tôi chẳng bao giờ có thời gian gặp nói chuyện chỉ hai người, như cha và con. Khi tôi trưởng thành và rời khỏi nhà, ông mời tôi đến các bữa tiệc của mình và đó là cách duy nhất chúng tôi gặp nhau. Khi ông chết, tôi cũng không còn nhu cầu đi dự các bữa tiệc nữa.

Giờ tôi ngồi đây uống cà phê với Crystal – cách xa những bữa tiệc mùa hè tại khu hồ độc quyền đó – nhưng tôi lại cười với cô ấy và tôi có thể thấy được trái tim mình nhẹ nhàng hơn và tinh thần thì lên cao hơn một chút. Thực tế này khiến tôi thấy ngạc nhiên. Có lẽ nguyên nhân là do chất kích thích có trong loại cà phê này. Nhưng tôi cũng phải thừa nhận rằng tôi cảm thấy thoải mái trong hoàn cảnh hoàn toàn mới này – uống cà phê giữa một cửa hàng đông đúc nhưng đầy tính lạc quan như một cách để bắt đầu một  công việc mới. Mọi thứ cũng quái gở và xa lạ giống như Alice ở xứ sở thần tiên. Hoặc Michael Gates Gill vượt đến một nơi khác, tầng lớp khác và thấy rằng điều đó cũng không đáng sợ lắm. Tôi đang vượt qua tình trạng cũ của mình và kết quả trực tiếp là tôi cảm thấy tốt hơn những gì tôi đã trải qua trong nhiều ngày. Hoặc tuần. Hoặc tháng.

Điều này thật điên rồ … nhưng tôi hy vọng có lẽ sẽ có phương pháp đối với sự điên rồ này.

Giọng của Crystal đánh vỡ giấc mộng ban ngày của tôi. “Mike, việc học được sự khác biệt của những loại cà phê này rất quan trọng.” Tôi không có thời gian xa xỉ để dành cho những thứ triết lý của bản thân nữa. Chuông đã gõ. Tôi giờ ở trong sàn đấu. Đã đến lúc tham dự vào những nỗ lực đang diễn ra từng phút hơn là đặt nặng suy nghĩ. Theo kịp những yêu cầu của khách hàng là công việc mới của tôi. Tôi phải từ bỏ việc dành quá nhiều thời gian để nghĩ về quá khứ và những gì tôi đã mất. Việc theo kịp hiện tại cũng là một thử thách lớn.

Tôi dần nhận ra, ở Starbucks, mọi thứ không xoay quanh tôi mà đều liên quan đến việc phục vụ người khác.

Crystal giữ khuôn mặt nghiêm túc và bắt đầu một bài giảng như thể tôi là một học sinh đang hào hứng với các câu chuyện về cà phê: “Cà phê Sumatra đến từ Indonesia; người Hà Lan đã mang chúng đến đó hàng trăm năm trước và nó thuộc một nhánh của một họ cà phê mà chúng tôi gọi là ‘gắt’”.

Lại “chúng tôi”, tôi để ý thấy điều đó và nghĩ về Linda White và cái từ “chúng tôi” mà cô ta dùng khi đuổi việc tôi. Crystal cũng có thể làm điều tương tự.

“Đây là cách mà chúng tôi chào đón những cộng sự mới,” Crystal giải thích, rướn người về phía tôi như thể sắp tiết lộ một bí mật cá nhân. “Chúng tôi tin rằng cà phê là công việc kinh doanh của mình. Cà phê Starbucks là tên của chúng tôi. Vì vậy chúng tôi chào đón tất cả các cộng sự mới với các mẫu cà phê và những câu chuyện về chúng.”

Crystal ngồi lại trên ghế và cười. Tôi cũng đáp lại cô ấy với một nụ cười. Khuôn mặc cô ấy giờ trông thật vui vẻ và lạc quan. Cả đôi mắt màu nâu của cô ấy, cũng ánh lên niềm thích thú hạnh phúc dù cho có lúc chúng cũng thật lạnh lẽo. Khi cô ấy nói, tôi có thể dễ dàng nhận ra người phụ này thông minh và nhiệt tình. Ít nhất là về việc kinh doanh cà phê. Và tôi cảm thấy có lẽ – chỉ là có lẽ thôi – Crystal sẽ cho tôi cơ hội để chứng tỏ bản thân.

Khi thưởng thức ly cà phê Sumatra đậm đà, tôi bắt đầu cảm thấy mình có thể giải quyết được công việc kinh doanh này của Starbucks. Tôi yêu cà phê; tôi thích học về lịch sử của mọi thứ. Tôi nhìn lướt qua các cộng sự đang làm việc tại quầy. Tất cả đều làm việc chăm chỉ nhưng dường như vẫn vui vẻ. Dù họ đều còn trẻ và không có ai là người da trắng thì tôi tự nghĩ rằng có lẽ tôi nên là một thành viên của cái nhóm ‘gắt’ đó giống như loại cà phê mà tôi đang uống.

Đột nhiên cửa nhà hàng bật mở. Một anh chàng người Mỹ gốc Phi đang cáu gắt bước vào. Anh ta phải cao trên một mét tám với cơ bắp cuồn cuộn dưới chiếc áo phông màu đen. Anh ta cuốn một miếng vải te tua trên đầu và trong mắt tôi trông chả khác gì một tên cướp biển thời hiện đại. Anh ta có ria mép và vài sợi gì đó ở cằm. Anh ta là kiểu người mà trong quá khứ tôi sẽ đi đường vòng để tránh.

Crystal gọi anh ta, “Này Kester, đến đây gặp Mike đi.”

Kester đi chậm đến bàn của chúng tôi. Tôi để ý thấy một vết bầm trên trán anh ta. Anh ta chìa một bàn tay to ra với tôi.

“Chào, Mike,” anh ta nói với một chất giọng trầm. Và rồi anh ta cười. Nụ cười khiến khuôn mặt anh ta biến đổi. Ngay lập tức tôi cảm thấy mình được chào đón. Trên thực tế, trông anh ta còn ấm áp hơn cả Crystal. Tại sao ư? Có phải vì anh ta tự tin hơn về việc có thể xử lý tôi? Những gã đàn ông gia trắng già cả sẽ chẳng khiến anh ta phải bận tâm.

“Kester, anh kiếm cục bầm đó ở đâu vậy?” Crystal nói và chỉ lên trán anh ta.

“Đá bóng ấy mà.”

“Đá bóng?”

“Phải, một vài người bạn ở Columbia gọi tôi cùng tham gia trận đấu … Hóa ra họ nghĩ là tôi chơi tốt. Như một điều tự  nhiên.” Kester cười khi nói điều này.

Nhưng Crystal nhanh chóng quay lại công việc đang làm trong tay. Khuôn mặt của cô ấy trở lại cái kiểu chuyên nghiệp và nghiêm khắc mà tôi sẽ biết sớm. Tôi có cảm giác Crystal luôn thích nắm quyền kiểm soát. “Mike là một cộng sự mới,” cô ấy giải thích cho Kester, “và tôi đang tự hỏi liệu anh có thể giúp tôi một việc … anh có muốn làm người hướng dẫn cho anh ta không?”

Tôi học được là ở Starbucks chẳng ai ra lệnh cho ai làm gì cả. Mọi thứ luôn là “Anh có thể giúp tôi một việc không?” hoặc cái gì đó tương tự thế.

“Chắc chắn rồi,” Kester trả lời, “Tôi sẽ thay đồ rồi trở lại ngay.”

Sau khi anh ta đi, Crystal nói với tôi trong khi rướn người về phía trước một cách thần bí, “Kester chẳng bao giờ cười cho đến khi anh ta bắt đầu làm việc ở đây. Anh ta từng là đại ca của một nhóm những kẻ…” Cô ấy ngừng lại, có vẻ như ý thức được việc kể cho tôi biết quá nhiều. Cô ấy ngồi lại, sửa sang tóc. Cô ấy đổi tâm trạng quá nhanh từ tự tin, thần bí, nghiêm túc, vui vẻ, chuyên nghiệp, lo lắng và giờ đây lại là lo lắng.

Kester trở lại, mặc một chiếc tạp dề màu xanh lá cây và mũ Starbucks đen nhưng trông vẫn khá là đáng sợ … cho đến khi anh ta cười. Crystal đứng lên nhường chỗ cho anh ta.

“Tôi sẽ mang cho hai người thêm cà phê.”

Crystal quay lại với một cốc Verona cho mỗi người và vài miếng bánh sô cô la cà phê. Tôi ngạc nhiên bởi phong cách nhiệt tình mà cô ấy đối đãi với chúng tôi. Tôi chưa từng phục vụ bất kỳ thứ gì cho bất kỳ cấp dưới nào trong suốt quãng thời gian làm việc tại công ty trước kia. Nhưng Crystal có vẻ thực sự thích việc này. Cô ấy và Starbucks dường như đang đảo lộn hết cái khái niệm thứ bậc truyền thống trong các công ty.

Cô ấy lại bắt đầu giải thích chi tiết về Verona và kể cho chúng tôi rằng nó là loại cà phê nam Mỹ ‘vừa phải’ rất phù hợp dùng chung với sô cô la.

“Nhưng mà,” Crystal giải thích và cười tươi với chúng tôi, “tất cả các loại cà phê đều hợp với sô cô la; chúng như an hem họ thân thiết vậy. Anh sẽ thích hương vị của Verona khi dùng chung với bánh sô cô la cà phê này.”

Cô ấy để chúng tôi tự thưởng thức bánh và cà phê của mình như thể chúng tôi là khách trong nhà cô ấy. Đây rõ ràng là một trải nghiệm hoàn toàn khác những gì mà tôi tưởng tượng. Cà phê Verona với bánh sô cô la cà phê là một sự kết hợp hoàn hảo – Crystal đã đúng.

Rồi Crystal đưa chúng tôi cà phê Colombia với một miếng bánh gato.

“Đây là loại cà phê ‘dịu’”, cô ấy nói. “Anh có thấy sự khác biệt không?”

“Chắc chắn là nó nhẹ hơn Sumatra,” tôi nói.

“Đúng, ‘nhẹ hơn’ là từ chuẩn xác, Mike,” cô ấy nói như thể cô ấy là giáo viên đang khen ngợi một học sinh thông minh. “Đừng lo, anh sẽ học rất nhiều điều về sự khác biệt giữa các loại cà phê ở đây. Dù sao thì anh sẽ được trả tiền cho khoảng thời gian anh ngồi đây uống cà phê và ăn bánh với Kester. Không tệ đối với ngày làm việc đầu tiên nhỉ!”

Crystal để tôi lại với Kester. Mặc dù trông cô ấy có vẻ thoải mái nhưng tôi nghĩ đó chỉ là một phần của cách cô ấy quản lý. Cô ấy có lẽ chỉ cố khiến “cộng sự mới” là tôi đây cảm thấy dễ chịu. Tôi nhận ra Crystal khá là khó đoán và rằng tôi sẽ mất nhiều thời gian để thật sự hiểu cô ấy. Cô ấy chẳng khớp với bất kỳ khái niệm nào mà tôi có.

Mười năm trước tôi không thể tưởng tượng được việc mình sẽ sợ hãi đồng thời háo hức và tuyệt vọng đến thế nào để có được sự đồng ý của người phụ nữ trẻ tuổi này.

Và mười năm sau, tôi cũng không thể tưởng tượng được việc ăn bánh sô cô la, bánh gato và thưởng thức những ly cà phê với một người có vẻ ngoài hung dữ như Kester.

“Ở đây nó thế đấy,” Kester nói theo cái kiểu nó phải thế. “Chúng tôi gọi nó là đào tạo thông qua chia sẻ. Nghĩa là chúng ta làm mọi thứ cùng nhau. Tôi học từ anh bằng cách giúp đỡ anh học,” Anh ta cầm lấy chiếc cốc của tôi và đứng dậy. “Được rồi, giờ anh đã thưởng thức cà phê nên chúng ta sẽ học cách pha chế chúng.”

Tôi theo anh ta vào sau quầy.

Sau này tôi mới biết Kester là người thân thiện nhất ở Starbucks. Đóng cửa hàng vào buổi tối là một trong những thách thức lớn nhất trong quản lý bởi vì bạn sẽ phải chịu trách nhiệm kết sổ và đảm bảo mọi thứ được sắp xếp và bổ sung đầy đủ cho ngày tiếp theo. Kester luôn đảm bảo rằng mọi thứ được thực hiện đúng giờ và hoàn hảo.

Vào ngày đầu tiên đi làm tôi chẳng biết gì về những điều này. Tôi cũng không biết rằng vào một buổi tối muộn sau này, Kester sẽ cứu mạng tôi.

 

Starbucks đã cứu cuộc đời tôi như thế nào – Chương 1

Chương 1: Từ việc thưởng thức ly Latte đến việc phục vụ thứ đồ uống đó

“Sự trưởng thành khiêm tốn”

Đây là câu truyện đầy bất ngờ và có thật về một người đàn ông trung niên da trắng từng bị đá ra khỏi vị trí hàng đầu trong một tập đoàn của Mỹ đã tình cờ gặp một người phụ nữ Mỹ gốc Phi trẻ tuổi đến từ một tầng lớp khác và biết được điều gì mới thực sự quan trọng trong cuộc sống. Người đàn ông sinh ra trong tầng lớp đặc quyền ở Bờ Đông khu thượng Manhattan, nơi chỉ dành cho giới thượng lưu trong khi người phụ nữ sinh ra trong gia đình nghèo khó ở khu ổ chuột Brooklyn. Ông ta đã từng có một công việc đầy quyền lực trong ngành quảng cáo và giờ chẳng còn gì; còn người phụ nữ đi lên từ vỉa hè và giờ đã thành công – đến nỗi cô ấy có thể trao cho một người xa lạ cơ hội để tự cứu bản thân mình.

Đây là câu truyện của chính tôi. Và giống như những câu truyện đầy ngạc nhiên khác, nó cũng bắt đầu bằng một biến cố.

Thực ra tôi chả có lý do gì để ló mặt ở bất kỳ chỗ nào gần cái nơi xảy ra sự việc thay đổi cuộc đời mình ấy. Nhưng mà vào cái ngày mưa tháng Ba năm ngoái đó, cái ngày mà tôi cũng không thể ngăn được ý nghĩ thôi thúc phải nhớ lại.

Khi cuộc đời khiến bạn mệt mỏi, bạn có từng muốn quay trở lại ngôi nhà ấu thơ đầy yên ổn? Tôi là con trai duy nhất trong gia đình và rất được cưng chiều mặc dù bố mẹ tôi hay vắng nhà. Và giờ tôi chỉ muốn níu giữ lại chút cảm giác ở nơi tốt nhất mà tôi từng trú ngụ trong thế giới này. Tôi trở lại con phố Bảy mươi tám phía Đông và nhìn sang ngôi nhà bốn tầng bằng đá xám mà tôi đã lớn lên.

Tôi lập tức mường tượng ra hình ảnh cây gậy chống của chiếc đàn piano hiệu Steinway to lớn trong phòng khách trên tầng hai. Hồi nhỏ mẹ tôi đã quyết định rằng tôi nên học chơi piano và bố tôi cũng tham gia vào dự án đó. Với ông thì chẳng có gì là quá khi nói đến con trai mình nên ông đã ngay lập tức đặt mua mẫu đàn to nhất, đắt nhất. Thế nhưng sau khi mua chiếc đàn Steinway khổng lồ đó thì lại nảy sinh vấn đề là làm thế nào để đưa lọt nó vào ngôi nhà đã cả trăm tuổi với những bậc thang hẹp và dốc của chúng tôi.

Cha tôi thế mà đã giải quyết được thử thách đó. Ông thuê một chiếc xe cần cẩu và để cái xe nâng chiếc đàn lên tầng hai, nơi mà chỉ cần mở những cánh cửa sổ kiểu Pháp và nghiêng cái đàn theo cạnh bên của nó thì thì đúng vừa khít để đưa vào phòng. Cha tôi cảm thấy tự hào kinh khủng về việc này còn mẹ tôi thì vô cùng hạnh phúc. Tất nhiên tôi cũng vui một cách âm thầm bởi lẽ tất cả những ồn ào không tưởng này đều là vì tôi.

Ngày hôm nay, khi tôi nhìn vào ngôi nhà trang nghiêm từng là nhà của mình, tôi nghĩ tất cả những nỗ lực đó đã tốn bao nhiêu tiền. Tôi đã rời khỏi những ngày tháng hạnh phúc đó bao xa. Tôi đã trải qua một quãng đường quá dài từ thời ấu thơ, khi mà tiền chưa bao giờ là vấn đề. Mà tôi bây giờ thì gần như sắp phá sản.

Thoát ra khỏi những ký ức ấm áp của quá khứ, tôi cố tìm chút yên ổn bên một cốc cà phê Latte. Đây là một trong những thứ cuối cùng mà tôi có thể tự thưởng cho mình. Một quán Starbucks đang ngự trị ở góc đường Lexington và đường Bẩy mươi tám, nơi mà trong những năm tháng tuổi thơ của tôi từng là một cửa hàng bánh ngọt. Trong cơn hoang mang chán nản của bản thân, tôi đã không để ý đến một tấm biển trước cửa có ghi “Ngày hội tuyển dụng” – dù sao thì đó cũng không phải loại biển báo mà tôi sẽ để ý đến. Sau này tôi mới biết rằng Starbucks có sự kiện tuyển dụng ở các cửa hàng khác nhau ở New York mỗi tuần. Quản lý của các cửa hàng trong khu vực sẽ đến để phỏng vấn các ứng viên tiềm năng. Bây giờ nghĩ lại, vận may đã rời bỏ tôi cuối cùng cũng trở lại ngay cái giây phút tôi quyết định bước vào cửa hàng nơi góc đường Bẩy mươi tám đó.

Vẫn tự bọc mình trong sự tự thương cảm và những hồi tưởng về vận may và gia đình đã mất, tôi gọi một ly Latte và đi đến một cái bàn nhỏ. Tôi ngồi xuống và chẳng buồn nhìn ai xung quanh đó. Tôi tự chìm vào không gian của riêng mình và cố gắng cắt nghĩa cái cuộc sống mà dường như đã hoàn toàn rời bỏ tôi.

“ Anh có muốn một công việc không?”

Tôi choảng tỉnh khỏi cơn mơ. Người vừa mới nói ngồi ở cái bàn bên phải tôi, sắp xếp lại một vài giấy tờ với một sự nhanh gọn chuyên nghiệp. Đó là một người phụ nữ Mỹ gốc Phi trẻ và hấp dẫn đang mặc đồng phục của Starbucks. Trước đó tôi còn chẳng nhìn thấy cô ấy, nhưng giờ tôi để ý thấy cô ấy đang đeo một cái vòng bạc và một cái đồng hồ khá đẹp. Cô ấy trông thật đáng tin cậy và tự tin.

Tôi đã bị choáng. Tôi không quen với việc tiếp xúc với bất kỳ ai ở Starbucks.

Trong suốt vài tháng qua tôi đã lê la ở nhiều quán Starbucks trong thành phố, mà với tôi chúng không phải nơi để thư giãn hay nói chuyện phiếm mà là văn phòng nơi tôi gọi điện cho các khách hàng tiềm năng của mình – những người mà giờ chẳng còn thèm nhận điện thoại của tôi nữa. Cái công ty tư vấn bé nhỏ của tôi đã nhanh chóng đổ bể. Tiếp thị và quảng cáo là công việc chỉ dành cho những người trẻ tuổi và ở cái tuổi sáu mươi ba thì tôi nhận ra rằng những nỗ lực của mình chỉ nhận được sự giả câm giả điếc của người khác.

“Một công việc”, người phụ nữ nhắc lại, mỉm cười như thể tôi không nghe thấy cô ấy. “Anh có muốn một công việc không?”

Chả lẽ mình lại thể hiện rõ ràng đến thế? Mặc dù tôi đang mặc bộ vest kẻ sọc mảnh của Brook Brothers và có phong thái của một ông lớn  – Tôi còn để chiếc điện thoại bên trên chiếc cặp da đắt tiền hiệu T. Anthony như thể tôi đang chờ một cuộc gọi quan trọng – thì chả nhẽ cô ấy vẫn nhận ra tôi là một trong những kẻ thất bại đáng thương trong cuộc đời này? Tôi, cựu giám đốc sáng tạo của công ty J. Walter Thompson, đơn vị quảng cáo lớn nhất trên thế giới, liệu có muốn một công việc tại Starbucks hay không ư?

Có vài lần trong đời, tôi đã không thể nghĩ được một lời nói dối lịch sự hoặc bất kỳ câu trả lời nào ngoài việc nói sự thật.

“Có”, tôi nói mà không nghĩ, “Tôi mong muốn có một công việc”.

Trước đây tôi chưa từng phải tìm kiếm công việc. Sau khi tốt nghiệp Đại học Yale năm 1963, tôi nhận được một cuộc gọi từ James Henry Brewster, Đệ tứ, một người bạn của tôi tại Câu lạc bộ Skulls & Bones.

“Gates”, anh ta nói một cách ngang ngược, “Tôi đã bán cậu cho J. Walter Thompson rồi”.

Jim ở thời điểm đó đang làm việc cho Pan Am Airways, công ty hàng không lớn nhất thế giới lúc đó và là một khách hàng của J. Walter Thompson’s, công ty quảng cáo được biết đến với cái tên JWT trên thị trường. Cả hai chúng tôi đã có quãng thời gian đẹp đẽ cùng nhau tại trường đại học – vậy nên sẽ thật tuyệt vời nếu lại được làm việc cùng nhau!

Jim sắp xếp cuộc phỏng vấn. Khi tôi tới để gặp những người tại JWT, tôi đã rất tự tin vào những lợi thế mà mình có. Không những tôi có sự “đảm bảo” của Jim mà còn vì ông chủ của JWT, Stanley Resor cũng tốt nghiệp Đại học Yale. Con trai ông ta, Stanley Resor Jr., còn ở chung phòng với một người chú của tôi tại Yale. Tôi đã đến thăm gia đình Resor tại trang viên rộng hai ngàn mẫu Anh của họ bên ngoài Jackson Hole vào mùa hè trước.

Những mối quan hệ này đã chứng tỏ rằng chúng là vô giá. Quảng cáo là một ngành nghề hào nhoáng. Lúc đó quảng cáo trên ti vi vừa mới được phát triển và trở nên thú vị và đầy hài hước. Rất nhiều người đã muốn tham gia vào ngành này nơi mà họ có thể kiếm được rất nhiều tiền mà vẫn giữ được sự sáng tạo của công việc. Chương trình đào tạo của JWT được xem là một trong những chương trình tốt nhất trong ngành này, và công ty chỉ tuyển một hoặc hai người viết nội dung quảng cáo mỗi năm.

Tôi chính là một trong những người được chọn đó.

Công việc đó như tiếng sét ái tình. Tất cả những gì tôi phải làm ở đó là nói và viết – những kỹ năng mà tôi bẩm sinh đã sở hữu – và chúng giúp tôi kiếm được rất nhiều tiền. Tôi đã rất thành công trong công việc và khách hàng đều hài lòng với các ý tưởng sáng tạo của tôi.

Tôi cũng nhận thấy bản thân rất thích các bài thuyết trình và tôi đã thực hiện chúng theo một cách đơn giản nhưng vẫn đem lại sức sống cũng như tiếng cười cho những cuộc họp tưởng như rất nhàm chán. Ví dụ, khi tạo ra câu khẩu hiệu “Hải quân đang tìm kiếm những người đàn ông tốt”, chúng tôi đã được yêu cầu làm quảng cáo cho chiến dịch tuyển dụng trị giá hàng triệu đô của Bộ quốc phòng. Bài thuyết trình được tổ chức trong một căn phòng chiến tranh của Lầu Năm Góc. Khi tôi bước vào, tôi nhìn thấy vài người đàn ông mặc quân phục gắn huân chương ngồi thành hàng sau một cái bàn cao. Họ chính là Hội đồng tham mưu chưởng liên quân. Họ ngồi đó như những pho tượng, và rõ ràng là không vui vì bị kéo vào một cuộc họp tiếp thị phù phiếm.

Tôi đi tới phía trước căn phòng, mang theo cái cặp của mình. Tôi thò tay vào trong và lôi ra một cái cung tên và mũi tên. Một người trong nhóm của tôi bước về phía ngược lại của căn phòng với một tấm xốp mà tôi đã vẽ mục tiêu lên đó bằng bút nhớ không phai mực. Tôi muốn nhấn mạnh rằng chúng tôi tin tưởng vào việc quảng cáo nhắm vào mục tiêu. Tôi muốn truyền đạt lời mình bằng thứ công cụ mà những người đàn ông này quen thuộc: một thứ vũ khí. Và vì chúng tôi là đội đầu tiên trong số mười ba công ty sẽ trình bày trong ngày hôm nay, tôi muốn họ sẽ phải nhớ đến chúng tôi.

Tôi kéo dây cung và bắn mũi tên đi. Và nhờ Chúa phù hộ, mũi tên trúng vào tâm. Cả căn phòng lặng đi trong khoảng một phút. Không ai di chuyển. Không ai nói gì. Và rồi cả bốn vị lãnh đạo cấp cao của quân đội đều vỗ tay, thậm chí còn hoan hô và cười. Tất nhiên chúng tôi đã thắng gói thầu đó.

Ngoài yêu thích công việc, tôi cũng làm việc rất chăm chỉ. Có một tờ điểm danh được dán ở hành lang của tòa văn phòng công ty JWT tại New York và tôi luôn cố gắng là một trong những người đầu tiên ký điểm danh đầu giờ và một trong những người cuối cùng ký điểm danh khi kết thúc ngày làm việc. Tôi được thăng chức khá nhanh và thường xuyên, từ người viết nội dung quảng cáo tới giám đốc sáng tạo và Phó Chủ tịch điều hành chịu trách nhiệm hành loạt những gói thầu quảng cáo chính cho các thương hiệu bao gồm Ford, Burger King, Christian Dior, hải quân Hoa Kỳ, và IBM.

Tôi sẵn lòng đi bất kỳ nơi nào để giúp đỡ khách hàng. JWT là một công ty mang tầm quốc tế và yêu cầu bạn phải di chuyển trong nước và cả nước ngoài. Tôi chưa bao giờ ngần ngại khi phải chuyển nhà mặc cho gia đình riêng ngày càng có nhiều thành viên – bằng cách nào đó, tôi đã có thể kết hôn, có  một tuần trăng mật hai tuần và bốn đứa con trong khoảng thời gian giữa những hợp đồng quảng cáo – để đến làm việc tại các văn phòng ở Toronton, Washington, D.C., và Los Angeles. Với tôi, công việc đóng vai trò lớn trong việc giúp tôi thành công chu cấp cho gia đình mình. Khi nói đến gia đình thì chẳng có sự hy sinh nào là quá lớn lao. Vì thế tôi coi JWT là ưu tiên hàng đầu của mình.

Thế nhưng, thật mỉa mai, tôi đã bay hàng ngàn dặm để dành thời gian với khách hàng và hầu như chẳng gặp con mình. Khách hàng của tôi trở thành con tôi và con tôi thì lớn lên mà không có tôi. Đứa con gái Annie bé bỏng mũm mĩm của tôi đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp và đã tốt nghiệp cấp ba rồi ư? Tôi đã khóc khi thấy con bé nhận bằng tốt nghiệp, trông thật trưởng thành và đã sẵn sàng rời khỏi nhà và rời khỏi tôi. Tôi nhận ra sự thật một cách đau đớn rằng tôi đã lỡ rất nhiều khoảng khắc quan trọng của con bé và cả của những đứa con khác.

Nhưng tôi – thậm chí lúc đó vẫn tự thuyết phục bản thân rằng sự hy sinh đó là đáng giá, bởi vì JWT đã giúp đỡ tôi rất nhiều. Lương của tôi rất cao và các phúc lợi cũng rất tốt vì vậy giờ đây khi mà bọn trẻ chuẩn bị học đại học và các loại hóa đơn ngày càng trở nên khủng khiếp thì tôi cũng chẳng cần phải quá quan tâm. Trong tâm trí của mình, tôi thậm chí còn tự hoan hô bản thân rằng: Mày đã rất thông minh khi cống hiến cho một công ty duy nhất – đổi lại là mức lương hàng tháng và sự ổn định. Giống như nhiều người đàn ông của thế hệ mình, với vai trò là “những kẻ chiến đấu vì bánh mì”, tôi hợp lý hóa sự tận tụy với công việc và niềm tin với JWT.

Đặt niềm tin nhầm chỗ, tôi tiếp tục làm việc nhiều giờ hơn, luôn sẵn sàng điều chỉnh lịch trình cá nhân vì nhu cầu của khách hàng. Tôi còn nhớ lúc con tôi còn bé, tôi đã nhận được một cuộc gọi của khách hàng từ hãng Ford vào đúng ngày Giáng sinh. Khi đó tôi đang sẵn sàng dành một ngày nghỉ hiếm hoi ở nhà, chơi với Elizabeth, Annie, Laura và Charles, cũng như tận hưởng một vài khoảng khắc thư giãn có đủ cả gia đình như một những người khác. Khách hàng khi đó muốn thực hiện một dự kiện giảm giá vào năm mới và hỏi liệu tôi có thể quay quảng cáo cho họ hay không? Ford nổi tiếng thích hành hạ các đơn vị quảng cáo và vì họ chi hàng triệu đô cho việc này nên chẳng bao giờ họ cho bạn một lựa chọn mà bạn có thể nói không nếu bạn vẫn cần công việc của mình.

“Chắc chắn rồi” tôi trả lời. “Khi nào?”

“Ngay bây giờ”, ông ta nói.

Tôi nghe giọng điệu căng thẳng đó và biết là tôi phải đi, mặc cho các con đang khóc. Quà của chúng vừa mới mở, vẫn bày đầy phòng khách và bọn trẻ vẫn còn đang mặc đồ ngủ. Nhưng tôi là một nhân viên mẫn cán của JWT. Tôi đã gọi taxi để ra sân bay và tới Detroit.

Tôi rất tự hào rằng tôi chưa từng từ chối bất kỳ yêu cầu nào của JWT. Vì thế tôi đã rất sốc khi mà sau hai mươi lăm năm cống hiến cho công việc, lại nhận được một cuộc gọi từ Linda White, một giám đốc điều hành trẻ của JWT.

“Ngày mai hãy cùng ăn sáng với tôi”, cô ta nói thẳng.

Đó chẳng phải là lời tốt đẹp gì từ nếu bạn nghe được từ một đồng nghiệp. Tôi yêu quí Linda. Một vài năm trước, tôi đã thuyết phục những ông bạn già trong ban giám đốc rằng chúng tôi cần một người phụ nữ trẻ thông minh. Linda đã làm rất tốt và tôi đã giúp đỡ để cô ta được tham gia vào Ban giám đốc. Cô ta là thành viên nữ duy nhất trong đó. Thực tế, Linda hiện nay là chủ tịch, thậm chí đã vượt mặt tôi trên nấc thang thăng tiến.

Cô ta là người được ông chủ mới của JWT ưa thích. Đó là một gã người Anh tên là Martin Sorrell. Gã từng là một thủ thư và chính xuất phát điểm đó khiến gã cực kỳ quan tâm đến kết quả kinh doanh. Trước Martin, JWT giống như một tổ chức phi lợi nhuận khi mà mọi người đóng góp hết sức để thực hiện các chiến dịch truyền thông tốt nhất cho khách hàng và chưa bao giờ lo lắng về kết quả kinh doanh. Martin lại có ý tưởng khác.  Gã nói với các cổ đông rằng gã quan tâm đến việc tăng lợi nhuận cho họ hơn là chi tiền để thực hiện những quảng cáo tầm cỡ nhất. Gã đề nghị mua lại công ty của chúng tôi dù chúng tôi không muốn và đã đấu tranh. Thế nhưng gã có được sự ủng hộ của những tay kế toán phố Wall ranh ma và dễ dàng thắng thế.

Tôi đã tham dự một cuộc họp mà Martin nói thẳng rằng “Tôi thích làm việc với những người trẻ tuổi”. Tôi đáng lẽ nên nghe ra và dự đoán được cái gì sắp tới.

Bản thân Martin mới đầu bốn mươi tuổi còn Linda thì đầu ba mươi tuổi. Chẳng trách họ có thể hòa hợp đến thế. Những con người trẻ tuổi và thông minh luôn sẵn sàng loại bỏ những kẻ mà có lẽ họ coi là “những lão già cổ hủ”.

Vào bữa sáng mà chúng tôi đã hẹn, Linda đến muộn. Đây lại là một dấu hiệu không tốt khác. Trong các tập đoàn của Mỹ, vị trí của bạn càng cao thì bạn càng đủng đỉnh. Và dù cố ý hay không thì Linda cũng đã học được phong cách đó.

Mắt cô ta đỏ hoe. Trông như thể cô ta đã khóc. Và đó lại là một dấu hiệu tồi tệ khác. Tôi biết Linda cũng yêu quí mình và cảm thấy biết ơn vì tôi đã giúp đỡ cho sự nghiệp của cô ta. Nhưng tôi cũng biết rằng khi làm việc tại các tập đoàn hiện đại thì người ta chẳng có thời gian cho sự thương cảm. Cái thực tế rằng tôi vẫn làm việc tốt và đã dành cả thời trai trẻ của mình để giúp JWT thành công chả có ý nghĩa gì ở đây hết.

Tôi đã gặp Linda trong một bữa tiệc. Cô ta lúc đó mới tốt nghiệp thạc sỹ Quản trị kinh doanh tại Harvard và có bằng đại học về lịch sử nghệ thuật. Tôi đã nói với cô ta rằng đó là một sự kết hợp tuyệt vời trong ngành quảng cáo – cô ta sẽ mạnh về các ý tưởng sáng tạo trong khi vẫn đảm bảo rằng cả quá trình có thể tạo ra lợi nhuận. Và tôi đã đúng. Thế nhưng bằng cấp không thì chẳng giúp cô ta tìm được việc. Tôi đã phải cho mọi người thấy cô ta mạnh mẽ hơn bất kỳ tên đàn ông nào mà chúng tôi có thể tuyển. Để giúp Linda tham gia Ban quản lý cấp cao của JWT, tôi đã phải viết một bản giới thiệu trong đó mô tả cô ta như một “Người đạt được hiệu quả cao đến không thể tha thứ”. Tôi đã cho Linda thấy bản ghi chú đó.

“Tôi thật sự là không thể tha thứ ư?” Linda hỏi tôi, gần như đã bị tổn thương.

“Không, có lẽ không”, tôi nói. “Nhưng là một người phụ nữ thành đạt, cô phải cho người ta thấy mình mạnh mẽ như bất kỳ người đàn ông nào – đặc biệt là trong việc quản lý. Có lẽ cô sẽ phải mạnh mẽ hơn cả bản chất thật sự của mình. Chủ nghĩa nam quyền bao gồm vô số những thời điểm then chốt và chỉ dung nạp những người có thể đảm đương. Đây cũng chính là phong cách quản lý mà Martin thích.”

Tôi giúp Linda tập trung vào những vấn đề khó của công việc: tiền, và một thái độ không khoan nhượng với việc cắt giảm chi phí – cắt giảm trong ngành quảng cáo thì luôn là cắt giảm nhân sự. Và giờ cái chi phí phải cắt giảm đó chính là tôi.

Tôi cười với cô ta. Tôi sẽ không khóc. Nhưng tôi cảm thấy như thể sắp chết. Trái tim tôi rất đau. Liệu có phải tôi đang lên cơn đau tim không? Không, tôi chỉ thấy rất, rất buồn. Và giận bản thân ghê gớm. Tại sao tôi không nhận ra các dấu hiệu chứ? Linda đã có những bước thăng trầm khi làm việc cho JWT; còn tôi thì dậm chân tại chỗ. Linda đã vượt mặt mặt tôi một cách chóng mặt. Martin ưa thích Linda. Theo phong cách Anh lịch thiệp thì rõ ràng là Martin không thể chịu được việc ở cùng một phòng với tôi. Với mái tóc hoa râm, tôi là nỗi xấu hổ đối với một công ty trẻ, đầy tinh anh, quyết đoán và đầy mưu mô mà anh ta muốn vận hành.

“Michael”, Linda nói. “Tôi có vài tin không vui”.  Tôi bồn chồn cầm cái bánh muffin của mình, ép bản thân phải nhìn vào mắt cô ta.

Người bồi bàn đến gần tôi để xem chúng tôi có yêu cầu thêm thứ gì. Những người phục vụ vẫn thường cho rằng những ông già mới là kẻ có tiền và nắm giữ trò chơi.

Tôi lắc đầu và anh ta lùi lại.

“Kể tôi nghe đi”, tôi nói mà không để lộ biểu hiện gì. Tôi không định cầu xin sự thương hại. Tôi biết điều đó chẳng có ích gì. Tôi đã hy vọng là Linda ít nhất cũng phải đấu tranh cho tôi, vì những gì đã cùng trải qua trong quá khứ. Nhưng cái giây phút mà bạn được mời đến một cuộc gặp mặt vào bữa sáng, bên ngoài công ty thì điều đó có nghĩa là mọi thứ đã được quyết định. Tôi biết giờ tôi chỉ còn là lịch sử.

“Chúng tôi phải cho anh nghỉ việc, Michael”. Cô ta nói những từ đó một cách máy móc. Cô ta đã làm tốt khi nghĩ ra được những từ đó, đặc biệt là cụm từ chung “chúng tôi” đầy giả tạo.

“Đây không phải là quyết định của tôi”, cô ta vội vã bổ sung và một giọt nước mắt lăn xuống má cô ta. Cô ta vội gạt nó đi, cảm thấy xấu hổ vì cảm xúc của bản thân – đặc biệt là trước mặt một người đã dạy cô ta phải mạnh mẽ. Tôi không nghĩ cô ta đang giả vờ. Tôi nghĩ là cô ta thực sự cảm thấy buồn khi tôi bị sa thải và cô ta được chọn để thực hiện việc bẩn thỉu này. Từ quan điểm lợi ích kinh doanh, thì việc giữ tôi lại được gọi là “không có đầu óc”. Rất nhiều người trẻ tuổi ngoài kia có thể viết và nói nhanh và tốt như tôi – mà họ chỉ đòi một phần tư số tiền tôi được hưởng. Nếu Linda từ chối sa thải tôi, thì cô ta không thể là một phần của những tay quản lý theo kiểu xã hội đen đó. Đây là một bài kiểm tra về việc lòng trung thành của cô ta đặt ở đâu: một lão già làm công việc sáng tạo đã giúp đỡ cô ta trong quá khứ hay tay phù thủy tài chính trẻ tuổi đang vận hành công ty? Linda phải chứng minh cho Martin thấy cô ta không thỏa hiệp. Bạn cần phải giết người để thành xã hội đen. Linda hôm nay phải nổ súng.

Tôi đã cố gắng tỏ ra dũng cảm nhất có thể. Ít nhất trong vài phút ngồi với Linda.

Linda nói cho tôi biết rằng với mỗi năm tôi làm việc tại JWT, tôi sẽ được hưởng một tuần của mức tiền lương hiện tại. Cô ta xin lỗi vì không thể đòi cho tôi thêm và cô ta tin rằng tôi đã tiết kiệm được chút gì đó trong suốt những năm làm việc.

Tiết kiệm thế quái nào! Tôi tự nhủ. Tôi có những đứa con phải đi học đấy.

Miệng tôi khô lại và tôi không thể nói gì.

“Được rồi,” Linda nói và đứng dậy. “Anh không cần phải quay lại văn phòng gói ghém đồ đạc. Chúng tôi sẽ làm việc đó thay anh.”

Lại là “chúng tôi”. Linda đã sẵn sàng quay lại với công việc bận rộn.

“Tôi muốn tổ chức một bữa trưa chia tay cho anh, Michael, vì anh đã đóng góp rất nhiều cho công ty,” Linda nói, vẫn đứng đó. “Tôi sẽ gọi điện cho anh để sắp xếp. Jeffrey Tobin của phòng nhân sự sẽ gặp anh bất kỳ khi nào anh muốn thảo luận những vấn đề liên quan đến khoản đền bù cắt hợp đồng của anh.”

Ý nghĩ kiện JWT hoặc viết những lá thư tố cáo đến các khách hàng hiện lên trong đầu tôi. Nhưng Martin và Linda đã liệu trước được điều đó. “Anh có thể nghĩ đến việc trở thành cố vấn sáng tạo hay tương tự,” Linda tiếp tục, giọng cô ta giờ đây trở nên tích cực hơn, “Martin và tôi tất nhiên sẽ cho anh những lời giới thiệu tốt nhất. Cá nhân tôi sẽ giúp anh bằng tất cả khả năng của mình,” cô ta nói thêm. Tôi chả còn cơ hội gì ở JWT, nhưng cô ta sẵn sàng hỗ trợ tôi nếu tôi ngoan ngoãn.

Bị đuổi việc không phải là một cách hay để bắt đầu một công ty tư vấn. Nhưng tôi biết, tôi cần sự thiện chí của JWT nếu muốn có bất kỳ công việc nào từ những khách hàng cũ hoặc bất kỳ ai. Nếu tôi gây rắc rối thì tôi sẽ chẳng nhận được gì.

Gã bồi bàn phiền phức lại tiến lên và tôi lại ra hiệu để anh ta đi.

Linda siết hai cánh tay tôi trong một cử chỉ gần như một cái ôm. “Hãy gọi cho Jeffrey, Michael. Anh ta yêu quí anh và sẽ giúp anh.”

Rồi cô ta quay đi và nhanh chóng sải bước ra khỏi nhà hàng.

Gã bồi bàn quay trở lại một lần nữa với hóa đơn trên tay.

Bên ngoài, mặt trời chiếu rực rỡ. Tôi đột nhiên tuyệt vọng nhận ra rằng mình chả có nơi nào để đi. Lần đầu tiên trong hai mươi lăm năm, tôi không có khách hàng chờ đợi mình đưa ra ý kiến cho các chiến dịch quảng cáo. Tôi bắt đầu bước đi và rồi khóc ngay trên đường phố. Điều đó thật nhục nhã. Tôi! Đã khóc! Nhưng ở cái tuổi năm mươi ba, tôi vừa mới nhận được án tử cho sự nghiệp của mình. Sâu trong trái tim, tôi biết mọi thứ sẽ rất tệ nếu như bạn già cả và bị đuổi ra đường.

Nhưng rồi mọi thứ thay đổi.

Có, tôi muốn một công việc. Tôi đã không nói câu đó trong suốt ba mươi lăm năm. Đã ba mươi lắm năm kể từ khi tôi bắt đầu công việc từ cấp thấp nhất tại JWT. Và đã mười năm kể từ khi tôi bị sa thải khỏi vị trí quản lý hàng đầu tại JWT. Tôi đã thành lập một công ty tư vấn và lập tức nhận được vài công việc khá tốt từ khách hàng cũ. Nhưng dần dần, rõ ràng là càng ngày càng ít những cuộc gọi của tôi được hồi đáp. Đã vài tháng trôi qua kể từ dự án gần nhất mà tôi làm. Kể cả một ly latte giờ cũng là thứ xa xỉ mà tôi không thể trả nổi.

Giờ đây khi nhìn vào cô nhân viên Starbucks tự tin đang mỉm cười với mình, tôi thấy tội nghiệp bản thân. Cô ấy trông có vẻ vô lo, trẻ trung và đầy những lựa chọn. Sau này tôi mới biết rằng cô ấy đã trải qua nhiều khó khăn hơn tôi có thể biết đến trong ba đời. Mẹ cô ấy là một kẻ nghiện chất kích thích và đã chết khi cô ấy mới mười hai tuổi. Cô ấy chưa bao giờ biết mặt cha mình. Khi mẹ cô ấy chết vì sốc thuốc, cô ấy được gửi đến ở với một người dì. Người dì này là một bà mẹ đơn thân và cũng có những đứa con không có cha cần phải chăm lo. Dì của cô ấy là một con người kinh khủng. Sau này cô ấy kể với tôi về cái lần kinh hoàng khi cô ấy ngã xuống cầu thang ở khu ổ chuột Brooklyn nơi cô ấy đã sống. Hông cô ấy đã bị vỡ, thế mà người dì quái đản còn mắng cô vì quá vụng về và từ chối đưa cô tới bệnh viện. Xương cuối cùng cũng liền nhưng theo một cách kinh khủng và gây đau đớn lâu dài. Mặc dù cô ấy tỏ ra vô cùng tự tin ngày hôm đó nhưng thực tế là cô ấy đã phải chịu đau đớn cả về thể xác và tinh thần.

Nhưng giây phút đó tôi vẫn đang chìm đắm trong thế giới riêng của mình và các vấn đề của tôi đã chiếm toàn bộ tâm trí tôi.

Với tôi thì người phụ nữ trẻ này có thứ quyền lực rất lớn – quyền tuyển dụng tôi. Có, tôi muốn một công việc. Ngay khi lời thốt ra tôi đã thấy sợ hãi. Tôi đang làm gì vậy? Nhưng cùng lúc đó, tôi biết tôi muốn một công việc. Tôi cần một công việc. Và tôi cho rằng tôi sẽ dễ dàng có được một công việc tại cửa hàng Starbucks này, phải không?

Cô nhân viên Starbucks xắp sếp lại giấy tờ trước mặt mình, nụ cười đã biến mất và cô ấy nhìn tôi một cách nghiêm khắc. “Vậy là anh thực sự cần một công việc?” cô ấy nói một cách hoài nghi và lắc đầu. Cô ấy rõ ràng là đã trở nên mẫu thuẫn hơn về tôi khi mà nhìn nhận đến cái thực tế tôi sẽ làm việc cho cô ấy.

Tôi thấy như bị sét đánh: hóa ra lời mời làm việc của cô ta chỉ là một trò đùa. Có lẽ cô ta chỉ định dành vài phút để đem tôi, một kẻ tẻ nhạt, căng thẳng và trông có vẻ kiêu ngạo ra làm trò đùa. Có lẽ cô ta chỉ đang làm theo một lời thách đố của một nhân viên khác. Thế nhưng tôi lại khiến cô ta ngạc nhiên khi nhận lời mời đó.

Cô ta nhìn tôi một cách soi mói. “Anh có đồng ý làm việc cho tôi không?”

Tôi thấy rõ thách thức trong câu hỏi của cô ta: liệu tôi, một lão già da trắng cho sẵn lòng làm việc cho một người phụ nữ da đen trẻ tuổi hay không?

Sau này cô ấy mới cho tốt biết người dì cau có và cay nghiệt của cô ấy đã lặp đi lặp lại suốt những năm cô ấy trưởng thành rằng, “bọn da trắng là kẻ thù”. Đứng trên quan điểm của mình, cô ấy đang mạo hiểm khi đề nghị thuê tôi. Và cô ấy sẽ không tiến thêm phân nào nếu chưa biết chắc tôi sẽ không gây ra rắc rối cho cô ấy.

Tôi cũng rất mâu thuẫn. Cả quá trình này như một sự thụt lùi với tôi. Trong cái thế giới mà tôi sống thì lý ra tôi mới là người đủ lương thiện và tốt để cho cô ấy một công việc chứ không phải người van xin để có được công việc. Tôi biết đây là một cảm xúc sai trái, vô cùng lệch lạc nhưng nó vẫn ở đó vo ve bên dưới bề mặt của tình huống lúc đó. Người phụ nữ trẻ này rõ ràng là chả quan tâm đến việc tôi trả lời có hay không với lời mời làm việc mà cô ấy đưa ra. Làm thế nào mà cô ấy đã trở thành người chiến thắng vậy? Thế giới của tôi hoàn toàn đảo lộn.

Ở thành phố New York, năm 1945, cha mẹ tôi khi đó lúc nào cũng như đang chuẩn bị đi dự một bữa tiệc cốc-tai hay các bữa ăn tối. Tôi lúc đó là một cậu bé nhỏ cô đơn. Như thường lệ, họ không có ở nhà khi tôi từ trường Buckley về bằng xe buýt. Nhưng Nana thì vẫn luôn ở đó để đón tôi với đôi tay dang rộng và một nụ cười tươi trên khuôn mặt. Tôi lao vào vòm ngực rộng rãi đó.

Người phụ nữ già đã sống với chúng tôi trong ngôi nhà bằng gạch xám trang nghiêm tại đường Bẩy mươi tám phía Đông là người tôi rất yêu quí khi còn bé. Bà ấy là đầu bếp của gia đình tôi và là người bạn đồng hành thân thiết nhất của tôi. Tôi dành toàn bộ thời gian của mình trong căn phòng bếp dưới tầng hầm ấm áp và thơm mùi thức ăn, giả dạng Charlie Chaplin để chọc bà cười. Bà thưởng cho tôi những món quà vặt ngon lành từ hạt khô và nho khô. Khi bố bà ở Virginia bị ốm, tôi đã nói với bà rằng bà có thể về thăm ông ấy. Hai tuần sau, bố bà mất. Nana nghĩ rằng tôi “được Chúa gửi đến”. Bà nói rằng ngày nào đó tôi sẽ trở thành một đứa con ngoan đạo của Chúa, một cha xứ. Tôi có hàm răng hô và đôi tai to nhưng Nana nói rằng “Cháu là một cậu bé đẹp trai”. Bà còn nói rằng tôi sẽ trở thành một kẻ đào hoa thực thụ.

Sau đó tôi tình cờ nghe thấy bố mẹ nói chuyện trong phòng sách. Giọng nói của họ rất nhỏ. Tôi rón rén đến sát cửa để nghe rõ hơn.

“Nana đã quá già để có thể leo cầu thang,” mẹ tôi nói.

Căn nhà bằng gạch xám của chúng tôi có bốn tầng với bảy mươi ba bậc thang – tôi đã đếm chúng nhiều lần để đỡ chán.

“Ừ, anh cũng nghĩ là mọi việc có vẻ đang quá sức của bà ấy”, bố tôi đồng ý.

Trái tim tôi nảy lên sợ hãi. Họ không thể đuổi Nana đi được. Tôi chạy đến với bà và khóc nhưng lại không thể nói cho bà những gì tôi vừa nghe thấy.

Vài tuần sau, khi tôi trở về nhà vào buổi chiều, Nana không còn ở đó để đợi tôi nữa. Bà đã đi. Mẹ đã thuê một người tị nạn người Latvia làm đầu bếp của chúng tôi. Cô ta mới mười chin tuổi và mẹ nói với tôi rằng mẹ đã được lời lớn khi thuê cô ta. Cô gái Latvia làm việc chăm chỉ nhưng hầu như không nói được tiếng Anh và không nói chuyện với tôi hay thậm chí là nhìn tôi. Cô ta sợ đi gần tôi hay bất kỳ người nào và lý do sau này tôi mới biết là bởi vì cô ta từng bị quân phát xít và cả cộng sản cưỡng hiếp.

Nhưng khi đó vẫn còn là một đứa trẻ, tôi chỉ biết rằng Nana đã đi mất và tôi lại thui thủi một mình trong căn nhà rộng lớn này. Căn bếp trở nên lạnh lẽo và trống vắng vì không có bà nhưng tôi lại không muốn rời khỏi căn phòng bà đã từng hiện diện. Tôi ngồi yên lặng bên khung cửa sổ bếp và ngắm những giọt mưa rơi chạy đuổi nhau dọc tấm kính. Tôi chọn một giọt mưa và so sánh nó với một giọt khác để xem giọt nào sẽ đến chân tấm kính trước. Nếu tôi chọn đúng tôi sẽ tự nói với mình rằng tôi xứng đáng có một điều ước trở thành hiện thực. Và tôi đã ước Nana trở lại.

Khi tôi xin việc tại quán Starbucks chỉ cách ngôi nhà bằng gạch xám mà tôi đã sống từ khi một tuổi đến năm tuổi gần một trăm mét, tôi đột nhiên cảm thấy trong trái tim mình có một lỗ hổng dành cho một người phụ nữ tôi đã không gặp trong suốt sáu mươi năm. Nana chắc chắn là già hơn rất nhiều so với cô nhân viên Starbucks đang ngồi đối diện tôi ngày hôm nay. Nana đáng yêu, to lớn và mềm mại. Cô gái trẻ này thì chuyên nghiệp, nhỏ nhắn với thân hình tuyệt vời. Nana mất vài chiếc răng nên khi cười, nụ cười đó lỗ chỗ. Còn cô gái này có nụ cười hoàn hảo sáng bóng. Nana như một người mẹ đối với tôi. Cô gái này đã vạch rõ rằng cô ấy là chủ còn tôi là nhân viên.

Rõ ràng là hai người phụ nữ này chẳng có điểm chung nào – trừ việc họ đều là người Mỹ gốc Phi. Như rất nhiều người da trắng mà tôi biết, tôi cũng ủng hộ ý tưởng hợp nhất. Thế nhưng càng già thì tôi càng thấy rằng dường như trong cái vòng tròn xã hội đầy những người da trắng bảo thủ thì người da trắng vẫn giao lưu với người da trắng và người da đen thì chơi với người da đen. Đối với tôi việc có mối liên hệ với một người phụ nữ Mỹ gốc Phi ở mức độ cá nhân thì chỉ khiến tôi liên tưởng đến mối quan hệ gần gũi chân thật nhất mà tôi từng có với Nana.

Cô nhân viên Starbucks trẻ tuổi không biết rằng bởi vì Nana nên tôi rất sẵn lòng làm việc với cô ấy – tôi không thể không tin tưởng cô ấy. Nó là một cảm giác thật vô lý, tôi tự nhủ với bản thân mình. Làm thế nào mà một người đàn ông sáu mươi ba tuổi lại bị chi phối bởi cảm xúc của một đứa trẻ bốn tuổi – thế nhưng đó lại là sự thật. Anh có sẵn lòng làm việc cho tôi không? Cô ấy đã hỏi như vậy.

“Tôi rất muốn làm việc cho cô”.

“Tốt. Chúng tôi cần người làm. Thế nên chúng tôi mới có một buổi tuyển dụng ngày hôm nay và tôi đến đây để phỏng vấn tìm người làm vị trí pha chế.” Cô ấy hầu như không nhìn tôi khi nói những lời này. Cứ như thể cô ấy đang đọc cho tôi các quyền mà tôi có khi bị bắt giữ chứ không phải là đang muốn giới thiệu một công việc. “Đây là vị trí thấp nhất nhưng lại có nhiều cơ hội. Tôi chưa bao giờ học hết cấp ba và giờ đây tôi đang quản lý một công việc kinh doanh ra trò. Mỗi quản lý nhà hàng đều phải tự điều hành cửa hàng của họ và thuê người làm mà họ muốn.”

Cô ấy đưa cho tôi một tờ giấy.

“Đây là mẫu hồ sơ xin việc. Bây giờ chúng ta sẽ bắt đầu buổi phỏng vấn chính thức.”

Cô ấy chìa tay ra.

“Tên tôi là Crystal.”

Trong suốt khoảng thời gian đó tôi vẫn đang ngồi ở cái bàn trong góc với ly Latte và đống giấy tờ. Cái cặp của tôi rơi xuống đất khi tôi đứng lên và vươn nửa người ra khỏi chỗ ngồi trong một tư thế kỳ cục để bắt tay cô ấy và nói, “Tên tôi là Mike.”

Tôi đã đặt tên cho công ty của mình là Michael Gates Gill và Những người bạn bởi vì tôi thích âm thanh vang dội của từng chữ trong tên của tôi. Nhưng ở đây tôi lại cảm thấy rằng “Mike” vẫn là cách gọi tốt hơn. Có lẽ là cách duy nhất.

“Mike”, Crystal nói một lần nữa sắp xếp giấy tờ trước mặt cô ấy mà vẫn không nhìn vào tôi, “tất cả các nhân viên của Starbucks đều được gọi bằng tên và họ nhận được lợi ích tuyệt vời.”

Cố ấy đưa cho tôi một tờ rơi lớn.

“Đọc qua tài liệu này và anh sẽ thấy tất cả những lợi ích về chăm sóc sức khỏe.”

Tôi nhận lấy tờ giấy một cách hào hứng. Tôi đã không biết là vị trí này có bảo hiểm y tế. Mức phí bảo hiểm y tế đã trở nên quá cao để tôi có thể tự chi trả cho mình. Tôi phải từ bỏ nó và đây là một lỗi lầm mà tôi đã nhận ra sẽ có hậu quả nghiêm trọng thế nào đối với mình. Bất kỳ mâu thuẫn nào mà tôi có đối với công việc này đều đã bay qua cửa sổ.

Chỉ một tuần trước tôi có làm kiểm tra tổng thể với bác sĩ của mình. Thông thường thì ông ấy sẽ cho tôi một báo cáo sức khỏe tốt. Nhưng lần này ông ấy lắc đầu nhẹ và nói, “có lẽ không có vấn đề gì đâu nhưng để chắc thì anh nên đi chụp cộng hưởng từ.”

Tại sao?”

“Tôi chi muốn chắc chắn. Anh nói là anh thấy ù tai phải không?”

Chỉ hơi ù thôi,” tôi vội trả lời. Tôi chưa bao giờ cho bác sĩ Cohen cơ hội để nghi ngờ về các vấn đề sức khỏe của mình. Tôi chưa bao giờ nói với ông ấy rằng tôi đang cảm thấy ốm. Ông ấy là một bác sĩ tận tâm và điều đó có nghĩa là ông ấy không mệt mỏi trong việc tìm ra các vấn đề sức khỏe của tôi.

Hơi ù vẫn là ù” ông ấy nói bằng cái giọng bực bội thường ngày của mình. Ông ấy thấy mất kiên nhẫn với sự né tránh khéo léo của tôi. “hãy đi chụp cộng hưởng từ sau đó gặp bác sĩ Lalwani.”

“Bác sĩ Lalwani?”

“Michael, anh là một kẻ kiêu ngạo,” bác sĩ Cohen nói với tôi “và một ngày nào đó điều này sẽ giết chết anh. Bác sĩ Lalwani là bác sĩ hàng đầu về tai. Anh ấy có bằng tiến sĩ ở Stanford. Giờ thì anh hài lòng chưa?”

Sau khi đã khám bệnh cho tôi trong suốt nhiều năm, bác sĩ Cohen hiểu tôi rất rõ.

Thế là tôi đi chụp cộng hưởng từ. Bác sĩ Cohen đã nói với tôi rằng việc đó chỉ mất “vài phút”.

Tôi đã nằm đó ít nhất là nửa giờ. Và tôi cũng không thích cái thực tế là tôi có thể nghe thấy các bác sĩ khác ra vào phòng.

“Chuyện gì xảy ra vậy?”

“Chẳng có việc gì cả,” vị bác sĩ trẻ tuổi nói như ra lệnh với tôi. “Chúng tôi sẽ gửi kết quả đến bác sĩ Lalwani. Anh ấy muốn gặp ông.”

Tôi đã rất tức giận. Tôi giận bác sĩ Cohen chứ không phải cái việc chụp cộng hưởng từ ngu xuẩn này. Trước giờ tôi vẫn khỏe mạnh. Và tôi vẫn sẽ khỏe mạnh bởi vì tôi không thể ốm bây giờ được.

Bác sĩ Lalwani bắt tôi phải chờ gần cả buổi chiều. Tôi thấy người ta ra vào phòng anh ta. Cuối cùng thì bác sĩ Lalwani cũng xuất hiện, tươi cười đến tận mang tai. Liệu đó có phải là dấu hiệu của hy vọng? Lalwani ra hiệu cho tôi đi vào phòng. Căn phòng nhỏ, chật chội và chất đống giấy tờ. Tôi thấy không yên tâm tí nào. Tôi thích một góc văn phòng rộng lớn với ghế sofa thoải mái. Anh ta rõ ràng là đã không làm tốt lắm trong chuyên môn của mình.

“Ông Gill,” anh ta nói.

“Michael,” tôi nói với anh ta và cố tỏ ra thật thân thiện.

Nhưng anh ta vẫn cố chấp và cười tươi hơn. “Ông Gill, tôi có vài tin xấu cho ông … nhưng có lẽ ông đã biết rằng có gì đó không ổn rồi … tôi nói đúng không?”

Tôi đã biết có cái đó không ổn rồi ư? Anh ta bị điên à? Tôi nghĩ mọi việc đều ổn thì có.

“Anh đang nói gì?” tôi cố gắng kiềm giữ sự lo lắng và tức giận của mình trước thái độ bình tĩnh của anh ta.

“Ông có một căn bệnh hiếm gặp. May mắn thay, cái đó lại đúng là chuyên môn của tôi.”

“Vấn đề gì?” tôi gần như hét lên, nhưng bác sĩ Lalwani lại như chẳng vội vàng gì.

“Một vấn đề rất, rất hiếm.” Anh ta lại cười. “Chỉ có một trong số mười triệu người Mĩ mới mắc phải.”

Tôi đợi chờ đầy tức giận nhưng với bản năng động vật, tôi biết tôi phải để cho vị bác sĩ tài giỏi đó làm những gì anh ta muốn. Tôi đã quá hoảng sợ để có thể hét lên về cái kiểu cách học giả của anh ta.

“Ông mắc phải bệnh gọi là ung thư âm thanh. Đúng chuyên ngành của tôi. Nhưng rất hiếm. Nó là một khối u nhỏ trên sàn não của ông … ảnh hưởng đến việc nghe của ông.”

Trong một giây tôi không thể nhìn hoặc nghe bất kỳ điều gì. Nó như thể là tôi bị bắn ngay giữa đầu và tim. Tôi nghĩ tôi chắc là đã nín thở.

Bác sĩ Lalwani có vẻ như cảm nhận được sự căng thẳng của tôi nên vội nói.

“Bệnh này không chết người đâu,” anh ta nói. “Tôi có thể phẫu thuật. Nhưng tôi phải nói với ông rằng cuộc phẫu thuật rất nguy hiểm.”

Tôi đã hồi phục lại khả năng nghe và nhìn đúng lúc nghe được những từ ngữ đáng ngại đó. Từ “Nguy hiểm” được thốt ra từ miệng bác sĩ phẫu thuật thì không phải là thứ mà tôi muốn nghe.

“Ý anh là gì?”

“Chúng tôi khoan vào xương sọ, và mọi thao tác đều diễn ra trong não. Đúng ra thì tôi là một bác sĩ thần kinh … nó là một cuộc phẫu thuật não.”

Anh ta cực kỳ tự tin vào bản thân. Tôi thì ghét anh ta vì sự sẵn lòng thực hiện phẫu thuật đó.

“Khả năng nghe của ông có thể không hồi phục. Khối u gây ra tiếng ù. Nó sẽ mất một hoặc hai tuần trước khi ông có thể rời bệnh viện,” anh ta nói.

“Trước khi tôi có thể rời bệnh viện,” tôi lặp lại một cách máy móc.

“Và sẽ mất vài tháng để ông hồi phục hoàn toàn. Nhưng tỉ lệ hồi phục là rất lớn. Khả năng tử vong rất thấp. Chỉ có vài trường hợp tử vong thôi.”

Một vài … đã chết? Anh ta bị điên à?

“Khi nào thì tôi phải phẫu thuật?” tôi lắp bắp. Miệng tôi khô đắng.

“Tôi sẽ thực hiện nó ngay… nhưng ông có thể sẽ muốn đợi vài tháng, quay trở lại và chúng ta sẽ chụp cộng hưởng từ lần nữa để xem liệu khối u có to lên hay không. Có thể ông có một khối u phát triển rất chậm.”

Cuối cùng cũng có một tia hy vọng. Giống như tất cả mọi người, tôi ghét cái ý tưởng về bệnh viện. Bạn bè tôi có người đã chết trong viện. Chưa kể đến hiện nay tôi gần như là phá sản. Thế nên mọi sự trì hoãn đều là một phần thưởng của Chúa.

Tôi đứng dậy nhanh chóng, bắt tay anh ta, rời văn phòng đó và ngay lập tức gọi cho bác sĩ Cohen.

Ông ta không yên tâm lắm.

“Nghe có vẻ như anh cần làm phẫu thuật ngay,” anh ta nói với tôi.

“Đúng,” tôi nói, giả vờ đồng ý, “nhưng tôi sẽ đợi một vài tháng để chụp cộng hưởng từ lần nữa.”

Tôi đang câu thời gian.

Từ bỏ bảo hiểm y tế đối với tôi đã là việc rất tồi tệ, nhưng không thể trả khoản tiền bảo hiểm y tế cho con mình còn kinh khủng hơn. Tôi tự hỏi liệu khối u có phải là một cái nghiệp để trừng phạt cho hành vi của mình.

Giờ đây khi đang ngồi đối diện với Crystal, tôi đọc tờ quảng cáo của Starbucks về đãi ngộ bảo hiểm với một niềm hứng thú đặc biệt. Những đãi ngộ này có vẻ rộng và bao gồm cả các vấn đề về răng và nghe –  những thứ mà tôi chưa bao giờ được hưởng khi còn là một quản lý cấp cao tại JWT.

Tôi ngước lên nhìn Crystal một cách hy vọng. “Cái này có bao gồm cả con cái không?”

“Anh có bao nhiêu con?”

“Năm đứa”, tôi nói và nghĩ về việc tôi đã từng nói “bốn”. Giờ thì là năm.

Crystal cười lớn. Rồi cô ấy mỉm cười, một cách tử tế.

“Anh chắc đã bận rộn lắm,” cô ấy nói.

“Đúng.”

Tôi không muốn nói gì thêm; nó quá phức tạp để bàn đến chuyện này trong một cuộc phỏng vấn xin việc.

“Được rồi,” cô ấy tiếp tục, vẫn bằng một giọng nói tích cực, “cả năm đứa con của anh đều sẽ được chi trả bảo hiểm chỉ với một khoản trừ thêm nhỏ.”

Thật nhẹ nhõm. Đứa con bé nhất của tôi, Jonathan, là lý do chủ yếu mà tôi cần công việc đến vậy. Mọi việc không phải lỗi của nó. Tất cả đều là lỗi của tôi.

Tôi đã gặp Susan, mẹ của Jonathan tại phòng tập gym, nơi tôi bắt đầu lui tới một thời gian ngắn sau khi bị đuổi việc. Tôi cần một lý do để ra khỏi nhà mỗi ngày và tập thể dục trở thành lý do mới của tôi để thức dậy và ra ngoài.

Một buổi sáng tôi đang nằm trên tấm thảm tập và nghỉ. Tôi tình cờ ở trong một căn phòng trống và nơi đó thỉnh thoảng được sử dụng cho các lớp yoga. Susan đi vào, rõ ràng là không để ý thấy tôi và tưởng căn phòng trống. Cô ấy khóc khi đi đến ngồi dựa vào tường.

“Cô có ổn không?” tôi hỏi. Tôi cảm thấy không thoải mái khi ở cạnh những người đang xúc động.

Cô ấy giật mình nhưng cũng không ngừng khóc.

“Anh trai tôi đang chết dần vì bệnh ung thư … chỉ còn sống được vài ngày…”

“Điều đó thật khó khăn,” tôi nói, ngồi trên tấm thảm xanh của mình, chuẩn bị rời đi.

“Và chỉ mới năm ngoái tôi đã mất bố vì bệnh ung thư phổi.”

“Thật khó khăn,” tôi lặp lại và đứng dậy. Đáng ra tôi nên tiếp tục đi ra cửa nhưng tôi lại nghĩ rằng không nên để cô ấy lại khi đang buồn như thế.

Tôi đến gần cô ấy.

“Đừng lo,” tôi nói mà chẳng biết những từ này ở đâu ra. “Cô sẽ sớm trở nên hạnh phúc hơn trước đây.”

Cô ấy ngước nhìn tôi. Susan nhỏ người, chắc chỉ tầm một mét rưỡi với mái tóc đen dày và mắt màu nâu. Tôi cao hơn mét tám, bị hói và có mắt màu xanh. Chúng tôi là ví dụ trái ngược điển hình trong nghiên cứu và chắc chắn là một cặp đôi kỳ lạ.

Susan lau nước mắt nhưng chúng lại càng chảy ra nhiều hơn.

“Cái gì?” cô ấy nói, không tin tưởng lắm việc mình đã nghe chính xác.

Tôi không thể tin được mình vừa nói gì. Những từ ngữ điên rồ này đến từ đâu vậy?

Nhưng tôi đã lặp lại chúng.

“Cô sẽ trở nên hạnh phúc hơn bao giờ hết.”

Cô ấy gật đầu như thể đã hiểu được ở một mức độ nào đó.

Tôi chuẩn bị đi.

“Tôi thích đàn ông tập yoga,” cô ấy nói. “Nó thể hiện sự linh hoạt.”

Susan và tôi bắt đầu mối quan hệ với những giả thuyết sai lầm. Cô ấy cho rằng tôi thích yoga. Trong khi tôi chả có tí hứng thú nào với yoga cả. Tôi không thích việc kéo căng người: nó khiến tôi cảm thấy càng ít linh hoạt hơn. Tôi cứng nhắc trong rất nhiều thứ. Thể chất. Tinh thần. Cảm xúc. Tôi thích các bài hát cũ, cách thức cũ. Cho đến giờ, quá khứ của tôi đều rất ổn. Susan không biết gì về thứ mà tôi thực sự thích. Gặp tôi trong phòng tập yoga và cô ấy nghĩ tôi là người linh hoạt, nhạy cảm, có thể hiểu sự uyên thâm mang tính tích cực và sâu sắc của cuộc sống. Giống như tôi là một bậc thầy khôn ngoan.

Thỉnh thoảng nó cũng thú vị khi mà người ta có thể nhầm lẫn đến thế.

Susan đã quá sai về tôi và tôi cũng đã nhầm về Susan. Tôi cho rằng cô ấy là một đứa trẻ bơ vơ cần sự an ủi và bảo vệ. Nhưng sau đó tôi biết rằng cô ấy là một bác sĩ tâm lý thành công với một lượng lớn bệnh nhân yêu quí.

Tôi nghĩ là cô ấy cần tôi.

Cô ấy nghĩ tôi có thể giúp cô ấy.

Cả hai chúng tôi đều sai.

Nhưng có một sự hấp dẫn ngay tức thì giữa chúng tôi. Có phải phản ứng hóa học mạnh mẽ giữa chúng tôi là mình chứng cho câu nói những gì ngược nhau thì sẽ hút nhau? Đặc biệt là buổi sáng sớm tại phòng tập gym. Tôi chẳng có gì tốt hơn để làm cả. Còn cô ấy có hai giờ rảnh rỗi trước cuộc hẹn với bệnh nhân tiếp theo.

Từ khi tôi bị đuổi việc, tôi đã nhận ra rằng tôi không thể làm tình với vợ mình được, và chúng tôi cũng chẳng thử thường xuyên cho lắm. Giống như nhiều cặp vợ chồng, chúng tôi thỉnh thoảng mới làm tình. Nhưng tôi vẫn thấy sợ hãi khi mà lần gần đây nhất tôi đã cố thử nhưng thất bại. Thất bại về thể chất đó làm tệ hơn thất bại trong công việc gần đây của tôi. Mà tôi thì luôn coi tình dục như một cách hứng khởi để giải tỏa căng thẳng. Giờ thì nó lại trở thành một dấu hiệu nữa của việc tuột dốc không thể đảo ngược được của tôi.

Cho đến khi tôi gặp Susan.

Nhưng mặc cho sự hấp dẫn đó, tôi vẫn đi ra phía cửa. Tôi là người không linh hoạt, và không ngoại tình … đặc biệt là với người tôi gặp ở một phòng gym hạng thường.

“Anh có muốn uống một tách cà phê không?” Susan hỏi một cách lịch sự khi tôi di chuyển ra cửa. Tôi gần như không nghe thấy cô ấy. Cô ấy nói rất nhẹ.

Tôi thấy bản thân mình trả lời, “Chắc chắn rồi, cùng uống một tách cà phê nhé.”

Có thể có điều gì xấu xảy ra khi uống một tách cà phê với một cô gái bé nhỏ đang đau khổ chứ? Chúng tôi có thể gọi một ly latte ở Starbucks và tôi có thể khiến cô ấy vui vẻ hơn.

Nhưng thay vì Starbucks thì cô ấy lại gợi ý đi đến căn hộ của cô ấy. Tôi đã đi cùng cô ấy và tôi đã bị mắc kẹt. Sau đó tôi gặp Susan mỗi buổi sáng khi cô ấy rảnh – khoảng hai hoặc ba lần một tuần.

Susan cũng không phải trẻ. Ở giữa tuổi bốn mươi. Bác sỹ phụ khoa của cô ấy nói rằng cô ấy không thể có con. Vì vậy cô ấy nói chẳng có lý do gì để kết hôn cả.

“Kết hôn là để sinh con,” cô ấy nói. “Rất không may là em lại chẳng thể có con.”

“Đó là chưa kể đến việc anh đã kết hôn rồi,” cô ấy nhắc nhở tôi, nhìn lướt nhẫn cưới trên tay tôi để xác nhận lại.

Tôi công nhận ý kiến của cô ấy với một cảm giác tội lỗi lớn. Mỗi ngày tôi lại yêu Susan hơn nhưng tôi cũng muốn giữ gia đình mình và tận hưởng cuộc sống hiện tại. Tôi yêu vợ và muốn bốn đứa con được sống trong điều kiện gia đình ổn định.

Rồi có một ngày Susan gọi tôi khi tôi đang ở nhà – một việc mà cô ấy chưa bao giờ làm.

“Em phải gặp anh.”

“Khi nào?” lúc đó là bẩy giờ rưỡi sáng. Tôi thậm chí còn chưa ăn sáng.

“Ngay bây giờ.”

Cô ấy đứng lặng lẽ trong căn hộ của mình; rèm cửa mở rộng về phía Sông Đông. Đó là một buổi sáng tháng ba nhưng mặt trời chiếu sáng lấp lánh trên mặt nước.

“Michael,” cô ấy thì thầm. “Em có thai. Và Chúa đã nói với em rằng em phải sinh đứa bé này.”

Trái tim tôi ngừng đập. Cái này không có trong kế hoạch của tôi. Tôi đã mất công việc và đang phải vật lộn để nuôi sống gia đình mình. Tôi không cần một đứa con nữa.

“Anh nghĩ gì thế?” cô ấy hỏi.

“Em phải lựa chọn,” tôi nói.

“Nói em nghe.”

“Không,” tôi nói và đứng dậy. Tôi định bảo cô ấy phá thai. Nhưng đây có thể là cơ hội duy nhất của cô ấy để có một đứa con.

“Đây là một điều kỳ diệu, Michael, nhưng em cần sự hỗ trợ của anh.”

“Anh đã phá sản.”

Cô ấy cười. Susan còn có một sự hiểu nhầm khác: cô ấy nghĩ rằng vì tôi ăn mặc lịch sự và trông có vẻ giàu có thì có nghĩa là tôi giàu. Cô ấy không biết rằng đằng sau cái thái độ đứng trên cả thế giới của tôi thì mỗi ngày tôi lại càng nghèo đi.

Tôi đã giữ mối quan hệ với Susan trong bí mật nhưng khi Jonathan được sinh ra, tôi đã nói với vợ mình. Cô ấy không thể chịu đựng được việc đó.

“Ngoại tình là một chuyện,” cô ấy nói. “Một đứa con thì lại là chuyện khác.”

Betsy là người tỉnh táo.

“Tôi không thể làm được việc đó,” cô ấy nói với tôi. “Tôi không được sinh ra để làm việc này.”

Thế là chúng tôi ly dị trong “hòa bình”, mặc dù cô ấy có quyền tức giận với tôi vì đã ngu ngốc như vậy.

“Tôi đã nghĩ là chúng ta sẽ sống với nhau suốt quãng đời còn lại,” cô ấy nói. Tôi cảm thấy thật kinh khủng.

Con tôi, giờ đã trưởng thành thì hiểu mọi chuyện theo cách trưởng thành nhưng vẫn thấy bị tổn thương và giận dữ. Tôi đã để lại cho Betsy ngôi nhà lớn và cô ấy có đủ tiền để dành để lo cho cuộc sống nhưng tôi biết mọi thứ không phải chỉ liên quan đến tiền. Tôi đã phá hỏng cuộc đời cô ấy.

Và tôi cũng tự phá hỏng cuộc đời mình.

Tôi thuê một căn hộ nhỏ tại khu ngoại ô New York. Tôi tuyệt vọng muốn sửa sai sau khi đã làm những việc tồi tệ đó nên tôi đã cố gắng để ở bên Susan và đứa bé mới sinh, Jonathan. Tôi sẽ đến vào lúc bốn hoặc năm giờ sáng để chơi với Jonathan và để Susan có thể ngủ một chút.

Tôi làm việc này chỉ vì trách nhiệm. Nhưng một việc không mong muốn đã xảy ra. Tôi càng ngày càng cảm thấy gắn bó với Jonathan. Và thằng bé cũng thế. Tôi và Jonathan thường cùng nhau ngắm mặt trời mọc. Khi những đứa con khác của tôi còn nhỏ, tôi đã không có thời gian để cùng trải qua những khoảng khắc thay đổi cuộc đời của chúng. Tôi lúc đó làm việc mười hai tiếng mỗi ngày tại JWT.

Lúc này, tôi có cơ hội nữa được làm một người cha – theo nhiều cách, một cơ hội mà tôi không xứng đáng. Tôi thích nhìn Jonathan lớn lên trước mắt mình; nhìn thằng bé khua khoắng bàn tay bé nhỏ như thể đang điều khiển dàn nhạc khi tôi hát một bài hát nhẹ nhàng hoặc nghe con cười với một niềm vui sướng không bị kìm nén khi tôi ném một con thú nhồi bông lên trên không.

Một ngày, khi tôi bế thằng bé đã ngủ say đặt vào cũi, Jonathan mở mắt và cười với tôi. Thằng bé mở miệng và những âm thanh tuyệt vời phát ra “Da da.” Chỉ hai từ đơn giản nhưng khiến trái tìm tôi rung động. Khi tôi nghĩ đến việc tôi đã để lỡ khoảng khắc kỳ diệu này của những đứa con khác, tim tôi nhói đau. Và tất cả vì điều gì chứ? Vì một công ty đã đuổi việc tôi để trả cho sự trung thành của tôi. Tôi muốn ngồi xuống và nói với những đứa con của mình rằng: Con chỉ sống một lần và hãy nhìn gương bố để sống một cách khôn ngoan. Hãy cân nhắc các ưu tiên của mình.

Tôi dành ngày càng ít thời gian để tìm khách hàng mới và ngày càng nhiều thời gian với Jonathan. Thằng bé yêu tôi và cần tôi. Trong mắt thằng bé thì tôi là một người tuyệt vời.

Những ngày này, có lẽ Jonathan là người duy nhất cảm thấy thế. Susan đã dần mất hứng thú với tôi, bắt đầu bằng việc cô ấy không thích nói chuyện với tôi. Cô ấy bảo tôi “nhàm chán”. Tôi thì không quá cởi mở với các ý tưởng mới. Và rồi cô ấy chán tôi với tư cách một người tình. Cô ấy nói tôi quá “khuôn mẫu”. Theo một cách kì quặc thì tôi càng xuất hiện trước mặt cô ấy nhiều – sau khi ly hôn vợ, có ít khách hàng và công việc để làm, tôi có nhiều thời gian hơn – tôi càng trở nên ít hấp dẫn với cô ấy. Cô ấy tưởng tượng ra tôi là một người đàn ông ở trên đỉnh của nước Mỹ, đầy đủ, năng suất, thành công và hạnh phúc. Giờ thì cô ấy đã nhìn thấy mặt thật của con người tôi: một cậu bé không có cảm giác an toàn và không giỏi đối mặt với thực tế.

Jonathan là người duy nhất yêu thích và người bạn duy nhất của tôi lúc đó. Nhưng giờ thằng bé bắt đầu đi học và tôi bị bỏ lại với quá nhiều thời gian, ít lý do hơn để trốn tránh làm việc và nhu cầu lớn hơn bao giờ hết cho một công việc chỉ để sống sót. Chết tiệt, tôi còn không thể đóng tiền bảo hiểm y tế cho đứa con bé bỏng của mình.

Làm thế nào mà tôi lại có thể vô dụng như vậy trong cả mối quan hệ công việc và cá nhân? Tôi cố gắng rũ bỏ những ý nghĩ tiêu cực và tội lỗi ra khỏi đầu và tập trung vào Crystal và cuộc phỏng vấn đáng ngạc nhiên này. Không biết do may mắn hay một sự bất thường nào đó mà Crystal đã cho tôi cơ hội này – có lẽ là cơ hội cuối cùng của tôi – để giúp tôi không tiếp tục tuột dốc. Tôi không muốn vuột mất nó.

Tôi ngước nhìn Crystal và cố gắng cho cô ấy thấy một nụ cười tự tin.

Cô ấy lại chẳng để ý đến. Rõ ràng là Crystal đang cố gắng cân bằng giữa cảm giác chán ghét cá nhân đối với tôi và cam kết để giữ sự chuyên nghiệp. Cửa hàng của cô ấy đang rất cần nhân công. Và tôi thì rất cần một công việc. Thuyết phục cô ấy đi, tôi tự nói với bản thân mình. Hãy thuyết phục cô ấy rằng đây là một sự kết hợp hoàn hảo. Tôi ép bản thân phải thật tích cực.

“Giờ tôi muốn hỏi anh vài câu hỏi về kinh nghiệm làm việc của anh,” Crystal nói với một giọng điệu chuyên nghiệp.

Đột nhiên tôi cảm thấy rất lo lắng. Sau khi nhìn thấy những phúc lợi về y tế mà Starbucks đưa ra, tôi thực sự muốn công việc này. Liệu Crystal có phải là một người phụ nữ trẻ như Linda White, người mà cuối cùng đã kết thúc sự nghiệp của tôi không? Tôi không quan tâm, miễn là cô ấy cho tôi công việc.

“Anh đã bao giờ làm việc trong ngành bán lẻ chưa?”

Câu hỏi của cô ấy khiến tôi giật mình.

Tôi cố gắng suy nghĩ một cách tuyệt vọng… Nhanh lên, bán lẻ là cái gì?

“Giống như làm việc tại Wal-Mart?” cô ấy gợi ý. Tôi cảm nhận được đây là lần đầu tiên trong cuộc phỏng vấn này, Crystal có vẻ như lựa chọn ủng hộ tôi. Tất cả những thứ này bắt đầu như một trò đùa hoặc một lời thách đố với cô ấy nhưng có lẽ, chỉ là có lẽ thôi, cô ấy đã nhìn thấy tôi  một người thật sự cần giúp đỡ.

Đột nhiên tôi nhận ra rằng cuộc sống đầy đặc quyền trước kia đã bảo vệ tôi khỏi cái thực tế mà những người khác hiểu rõ hơn tôi nhiều.  Crystal có lẽ có thể giúp tôi có được một sợi dây nhưng tôi có lẽ chẳng thể nắm được sợi dây mà cô ấy đã đã ném cho tôi trong cuộc phỏng vấn này: tôi chưa bao giờ bước vào một cửa hàng Wal-Mart cả.

Crystal đánh một cái dấu nhỏ trên tờ giấy của cô ấy và tiếp tục. Tôi cảm thấy rất căng thẳng. Cái này có vẻ không tốt lắm.

“Anh đã bao giờ đối mặt với khách hàng trong các tình huống khó khăn chưa?” Crystal đọc câu hỏi trong tờ phiếu và ngẩng đầu nhìn tôi. Đôi mắt của cô ấy trở nên dịu dàng hơn; giờ đây cô ấy dường như sẵn sàng là tôi sẽ trả lời đúng câu hỏi này.

Nhưng tôi vẫn chẳng nghĩ ra gì cả. Liệu nói chuyện với CEO của Ford được coi là khó khăn? Đúng, nhưng điều đó có lẽ chẳng giúp tôi có được công việc này. Tôi nhớ tôi đã làm nhiều quảng cáo cho Burger King và đã làm việc ở một cửa hàng của họ trong một buổi sáng để tìm kiếm cảm giác cho công việc đó.

“Tôi đã làm việc ở Burger King,” tôi nói.

Crystal nở một nụ cười lớn.

“Tốt,” cô ấy nói. “Và anh đã đối mặt với khách hàng như thế nào khi mọi thứ trở nên tồi tệ?”

“Tôi lắng nghe cẩn thận những gì mà họ nói, cố gắng sửa lỗi sai và sau đó tôi hỏi họ rằng tôi có thể làm gì nữa.” Tôi phun ra những lời vô nghĩa từ một tờ rơi mà tôi đã viết về việc làm thế nào để giải quyết vấn đề trong hoàn cảnh khó khăn.

Crystal lại cười và đánh một cái dấu trên tờ phiếu.

“Anh đã từng làm việc với rất nhiều người trong một khoảng thời gian eo hẹp chưa?” cô ấy hỏi.

“Rồi,” tôi nói, giữ cho câu trả lời có vẻ mông lung. Làm việc muộn cho một chiến dịch quảng cáo của Christian Dior rất khác với việc phục vụ latte cho hàng trăm người đang trên đường đi làm.

Crystal lại đánh dấu trên tờ phiếu. “Anh biết gì về Starbucks? Anh đã từng đến quán của chúng tôi chưa?”

Tôi đã chạy đây chạy đó. Trong suốt nhiều tháng, nhiều tuần tìm kiếm công việc, tôi đã đến nhiều quán Starbucks ở New York. Tôi chớp lấy cơ hội được thể hiện kiến thức của mình. “Các cửa hàng của Starbucks ở Grand Central luôn bận rộn và chẳng chỗ nào có ghế ngồi cả, vì vậy tôi không thể ngồi xuống nhưng cửa hàng ở Đại lộ số 5 đường 45 thì lại khá thoải mái và cửa hàng ở Đại lộ Công viên thì có tầm nhìn đẹp, và ..”

“Được rồi Mike,” cô ấy ngắt lời tôi. “Tôi biết rồi.” Cô ấy cười. “Có vẻ như anh là fan của cửa hàng nên tôi nghĩ anh sẽ thích câu hỏi này: đồ uống yêu thích nhất của anh là gì?”

Một lần nữa tôi có thể thật sự nhiệt tình mà trả lời vì tôi thích cà phê ở nhiều dạng khác nhau, và Starbucks là nơi tốt nhất để thưởng thức chúng.

“Điểm khác biệt giữa latte và cappuccino là gì?” Crystal hỏi.

Cô ấy tóm được tôi rồi. Tôi thích cả hai loại đồ uống này nhưng lại chẳng biết chúng khác nhau ở chỗ nào. “Tôi không biết … cappuccino có ít sữa hơn và gì đó nữa?”

“Anh sẽ biết thôi,” cô ấy nói, lại đánh dấu vào phiếu của tôi nhưng tôi nghĩ phản ứng có vẻ tích cực. Chỉ nghe cô ấy nói “Anh sẽ biết thôi” đã khiến tôi trở nên tự tin hơn. Tôi gần như đã từ bỏ ý nghĩ rằng mình sẽ học thêm cái gì đó mới mẻ hoặc ai đó sẽ dành thời gian để giúp tôi học về một công việc mới.

Crystal đứng lên. Rõ ràng là cuộc phỏng vấn đã kết thúc.

Tôi cũng đứng lên, gần như làm đổ cốc latte vì sự vồn vã của mình. Chúng tôi bắt tay.

“Cảm ơn, Crystal,” tôi nói, cảm thấy biết ơn hơn bao giờ hết trong đời mình. Cô ấy có vẻ như cảm nhận được sự biết ơn chân thành đằng sau câu nói đơn giản của tôi.

Cô ấy cười. Có cái gì thú vị trong những lời tôi nói sao? Cô ấy rõ ràng là bây giờ mới có cái nhìn thật sự về toàn bộ tình huống. Và tôi, có lẽ đã cho cô ấy thấy rằng “kẻ thù” là người mà cô ấy có thể xử lý một cách dễ dàng. Hoặc, thậm chí tốt hơn, có lẽ cô ấy đã phát hiện ra tôi không chỉ là một lão già người da trắng mà còn là một con người thực sự mà cô ấy có thể giúp. Cho dù lý do là gì thì cô ấy có vẻ như thoải mái hơn với tôi.

Nhưng rồi cô ấy lại trở nên nghiêm túc. “Công việc không dễ dàng đâu, Mike.”

“Tôi biết. Nhưng tôi sẽ làm việc chăm chỉ. Tôi xin hứa.”

Cô ấy cười và có lẽ hơi tự hào về điều đó. Sau này tôi mới biết lý do. Tám năm trước, khi cô ấy còn lang thang trên phố, cô ấy chưa bao giờ nghĩ rằng trong tương lai cô ấy sẽ gặp một gã đàn ông da trắng, một kẻ đúng như tục ngữ nói, mặc bộ comple giá hai ngàn đô đi xin xỏ cô ấy một công việc.

Crystal chắc đã nhận ra sự chân thành trong việc tôi sẵn sàng vượt qua ranh giới – từ việc thưởng thức những ly latte tới việc phục vụ chúng. Nhưng tôi nhận ra rằng cô ấy thấy tôi còn phải học nhiều và phải phá bỏ nhiều định kiến.

Mặc cho điều này, cô ấy sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm, vượt qua tầng lớp xã hội, dân tộc, và lằn ranh giới tính để cân nhắc cho tôi một công việc.

“Tôi sẽ gọi cho anh trong vài ngày tới, Mike,” cô ấy nói, “và cho anh biết quyết định.”

 

Quán ốc Quốc Tử Giám, ngay ngõ 51 nhé!

Quán ốc Quốc Tử Giám là quán ruột của Amber. Bất kỳ lúc nào muốn ăn ốc là đều muốn đến quán này để ăn. Quán nhỏ và cũ rồi, lại ở trong ngõ nữa nhưng mà đúng là rất đáng ghé qua một lần.

Quán ốc Quốc Tử Giám
Quán ốc Quốc Tử Giám – Một bàn đầy đủ nè

Thực đơn của quán phải nói là không được phong phú như những quán ốc khác nhưng đổi lại đồ được làm rất sạch. Amber đi ăn ốc ở nhiều chỗ rồi nhưng kết luận chung là họ làm không sạch. Có những chỗ ốc và ngao không được làm kỹ nên ốc thì bẩn mà ngao thì cát. Riêng ở quán ốc Quốc Tử Giám này thì mọi thứ được chuẩn bị kỹ nên ăn yên tâm.

Quán ốc Quốc Tử Giám
Quán ốc Quốc Tử Giám

Quán có bán những món phổ biến như ốc luộc, ngao hấp, ốc hoặc ngao xào me, cút lộn, khoai tây chiên, khoai lang kén, chân gà xả ớt, nem chua rán. Hai món Amber thích nhất là khoai lang kén và chân gà. Ăn là mê rồi! Những món khác như ngao hấp hay nem rán cũng đều rất ngon. Nói chung là với thực đơn này thì quán cũng đủ đáp ứng nhu cầu của hầu hết chị em rồi nhỉ.

Quán ốc Quốc Tử Giám
Quán ốc Quốc Tử Giám

Giá cả ở đây thì phải nói là siêu phải chăng. Hay tại Amber ít đi ăn nhưng mà chỗ này ăn no mà rẻ. Mỗi người tầm 60-80k là bét nhè rồi đó!

Quán không quá khó tìm và vị trí cũng trung tâm nên tiện cho việc đi lại. Thứ không tiện lắm ở quán này là chỗ để xe. Bạn sẽ phải để xe bên đường, trên vỉa hè. Về cơ bản thì cũng chả sao. Nhưng cái vỉa hè đó lại là chỗ để xe của quán Cộng cà phê gần đó nên nếu hôm nào đông khách thì cũng phiền. Ngoài ra quán khá nhỏ, có 6 bàn và sức chứa tối đa là 24 người. Tuy nhiên Amber chưa bao giờ phải chờ khi đến quán cả.

Quán ốc Quốc Tử Giám mở cửa chiều và tối nhé. Amber tháng nào cũng phải qua vài lần mới đã nghiền.

 

Cora Coffee, 24 Hòa Mã

Bạn đang tìm một nơi yên tĩnh và tiện gặp gỡ nhóm để bàn công việc? Hay bạn đang tìm một chỗ ngay trung tâm mà lại thoáng, rộng để nhâm nhi thứ gì đó và thư giãn. Cora Coffee là nơi lý tưởng để bạn chọn nhé!

Địa điểm đẹp:

Cora Coffee nằm trên đường Hòa Mã nên rất tiện cho việc di chuyển. Đường Hòa Mã về cơ bản là vắng và không lo bị tắc đường nữa chứ. Điều mà Amber thích nhất về Cora đó là chỗ gửi xe tiện. Bạn không phải để vỉa hè, không phải đi xa xôi để gửi xe mà có thể gửi ngay tầng hầm của tòa nhà.

Có lẽ vì nằm trên phố Hòa Mã vắng vẻ nên quán cũng vắng. Điểm này Amber cũng ưng vì nói chung Amber không thích lắm mấy chỗ ồn ào. Mà các quán ở trung tâm thì hiếm có quán nào không ồn ào.

Menu cho cả ngày

Thực ra menu của Cora cũng không phải phong phú lắm. Thế nhưng được cái menu có đủ các món từ ngọt đến mặn. Đồ uống ở đây cũng có đủ từ cà phê tới trà và nước ép các loại. Amber đã thử món bánh cầu vồng và trà gạo của quán. Bánh thì đẹp mắt lại không quá ngọt. Trà thì không có gì đặc sắc lắm.

 

Cora Coffee
Bánh cầu vồng và cheese cake nè!

Trang trí và deco của quán ổn với tông trầm và thiết kế mang hơi hướng thiên nhiên. Bàn ghế của quán chủ yếu là gỗ và đây đó có điểm xuyết những chậu cây và hoa làm mát mắt.

Cora Coffee khá là rộng vì có đến 2 tầng. Vì vậy việc gặp mặt nhóm đông là không thành vấn đề. Chỗ ngồi cũng thoải mái nữa. Nói chung đây là một địa điểm nữa để bạn ghé thăm khi rảnh nhé!

Cùng đến ăn bún đậu mắm tôm ngõ Trạm nào!

Amber mỗi lần đi ăn bún đậu mắm tôm thì đều muốn tới quán bún đậu mắm tôm ngõ Trạm. Mặc dù nó cũng không gần nhà lắm tuy nhiên lại ở ngay sát chợ Hàng Da, đường Phùng Hưng và tiện để xe. Bún ở đây không quá đặc biệt nhưng lại được làm đầy đặn và rất vừa miệng.

Bún đậu mắm tôm
Bún đậu mắm tôm – phần ăn hai người

Một phần đầy đủ có bún, chả cốm, đậu phụ, măng luộc cùng với rau sống và nước mắm hoặc mắm tôm. Ngoài ra ai thích có thể gọi thêm thịt chân giò luộc, giả cầy, và dồi rán. Nói chung với giá tiền giao động 45-60k một suất thì thế này là đầy đặn và đảm bảo ăn no. Tuy so với các quán bún đậu khác thì giá này không rẻ nhưng so chất lượng thì có thể hiểu được. Chả cốm ở đây là loại chả cốm dầy, miếng to chứ không giống các hàng khác miếng chả bé tí lại khô và mỏng. Thịt chân giò cũng được bó và thái miếng to bản, nhìn vừa đẹp vừa hấp dẫn. Dồi rán cũng là loại to được làm tử tế. Túm lại một miếng ăn vào miệng là thấy đã đời rồi.

Amber từng đưa bạn đến đây ăn, nó kêu lúc đầu nhìn thì thấy ít mà ăn xong no quá không đứng dậy được.

Quán nói chung là tiện cả đường đi, tiện chỗ để xe và nếu muốn gọi nước thì cũng có ngay hàng nước bên cạnh với các loại trà đá, sữa đậu nành, nước gạo rang v.v. Duy chỉ có hai điều mình không thích lắm. Một là quán nhỏ, chỗ ngồi nhiều lúc phải chen nhau. Mùa đông thì còn đỡ, mùa hè ngồi chỗ này cũng rất nóng. Bao lâu nay vẫn như vậy. Mặc dù quán đông khách là thế mà cũng chả thấy chủ quán đầu tư mở rộng hay làm đàng hoàng hơn. Còn điều thứ hai đó là quán chỉ mở buổi trưa còn buổi tối nghỉ. Thế là nếu có đi lang thang buổi tối mà muốn ghé đây ăn thì chịu.

Quán này hợp đi ăn với bạn bè thân thiết vì là quán vỉa hè, mọi người đều ăn ào ào. Dù sao thì ăn xong mọi người cũng có thể đến Tranquil gần đó uống cà phê và nghỉ ngơi trong phòng điều hòa. Cũng không tệ nhỉ.

 

Tranquil – Quán cà phê sách giữa lòng Hà Nội

Tranquil là một trong những quán cà phê sách mang chủ đề hoài cổ. Amber đến cơ sở số 5 Nguyễn Quang Bích của quán lần đầu tiên cùng vài người bạn vào một ngày nghỉ lễ. Có lẽ vì là ngày lễ nên quán khá vắng.

Ấn tượng ban đầu về Tranquil

Đó là một ngày mùa đông nắng đẹp, hơi xe lạnh thế nên khi bước vào Tranqil, Amber đã không khỏi ấn tượng vì không gian ấm cúng và trang trí không khác gì ở nhà. Lúc đầu Amber nghĩ là quán khá nhỏ, chỉ có vài bộ bàn ghế bên ngoài và một vài chỗ ngồi bên trong. Thế nhưng Tranquil Cửa Đông còn có tầng 2 với khoảng 8-10 bàn nữa cho khoảng 16 – 20 khách nữa. Nếu bạn muốn đặt chỗ hẹn hò hoặc làm việc nhóm đông người thì Tranquil chắc cũng ghép được 4-5 cái bàn cho nhóm 15-20 người đó.

Tranquil - số 5 Lê Quang Bích
Tranquil – quán có vài bàn đặt bên ngoài

 

Điểm cộng của Tranqil là thực đơn khá phong phú các món cà phê, bánh các loại… Chỉ vừa bước vào ngõ là đã thấy mùi cà phê thơm nức. Bước vào bên trong, không gian thoải mái vừa giống nhà vừa giống thư viện khiến ai cũng thích. Giá cả cũng không quá cao. Và Tranqil có sách cho khách đến đọc. Ngoại trừ những chỗ ngồi ngoài trời có sử dụng ánh sáng tự nhiên thì quán dùng đèn vàng. Cái này tốt cho mắt nha, cũng khiến không gian thêm thân mật và ấm áp. Địa điểm quán cũng trung tâm nên dễ di chuyển đi lại. 

Đồ uống của Tranquil
Trà hoa quả và món Creamy Cheesy của Tranquil

Lần thứ hai đến với Tranquil

Lần thứ hai Amber tới quán là vào một buổi chiều mùa hè. Quán khá đông nhưng có điều hòa mát lạnh nên không vấn đề gì cả. Chỉ có điều quán có mỗi một cái toilet dùng chung cho cả nam và nữ. Chỗ để xe cũng hơi khó tìm. Đằng trước cửa quán có thể để xe nhưng chỗ có hạn. Quán đã rất tận tâm khi để một cái bảng hướng dẫn để xe nhỏ phía trước ngõ – nhỏ cỡ một cái khay đồ ăn, ặc. Thế nên một đứa cận thị như Amber đã phải loay hoay dựng xe vào hỏi nhân viên mới biết là phải để xe ở vỉa hè chỗ cây đa bên đường Phùng Hưng phía đối diện ngõ.

Nếu ai đó đang muốn tìm một quán cà phê sách đúng kiểu thì Tranquil chính là một lựa chọn tốt.

Website của quán để bạn tham khảo: http://tranquil-books-coffee.business.site/

Ủng hộ Rừng Hổ Phách

Mong các bạn ủng hộ để Amber duy trì trang web. Nếu không có Paypal thì có thể:
1. Chuyển khoản tới: Hoang Mai Nhung - 0021002033624 - Vietcombank.
2. Chuyển qua Momo
3. Gửi thẻ cào điện thoại Viettel
Chân thành cảm ơn!

Rừng Hổ Phách

Lịch

Tháng 10 2025
H B T N S B C
 12345
6789101112
13141516171819
20212223242526
2728293031  
DMCA.com Protection Status