Chương 46 (2)
Cô cảm thấy cô Nhạc Mã thích mình. Cảm giác được thích thật sự hạnh phúc, phối hợp với cơn say mơ màng sau khi cơm no quả thực khiến người ta thấy như đang nằm mơ.
Trong giây phút này Lâm Tuyết Quân giống một con dê con được che chở và ôm túi chườm nóng cô Nhạc Mã đưa cho rồi ngồi bên cạnh lửa trại nhìn mọi người bận rộn.
Ông lão Trang Chu Trát Bố bỏ thịt thừa vào mấy cái hộp sắt đặt trên nền tuyết lạnh. Chú Hồ Kỳ Đồ đổ canh còn thừa vào phích nước nóng rồi vốc tuyết rửa nồi nhôm.
Anh Ô Lực Cát cắt thịt nướng còn thừa và bỏ ở một bên cho gió thổi khô. Sau này họ có thể bỏ nó vào trà sữa nóng để ăn sáng. Thịt dê nướng trên than củi đi kèm với trà sữa thì quả thực mỹ vị.
Cô Nhạc Mã dùng kẹp sắt thu đống lửa lại sau đó đặt một ấm trà lên đó. Bà bỏ mấy vốc tuyết sạch vào đó, lại ném một cục trà và đảo qua mới đậy nắp…
Lâm Tuyết Quân thấy nước trong nồi dần ùng ục như những bong bóng hạnh phúc bay lên từ thân thể của cô.
Cô Nhạc Mã lại móc từ một cai túi sạch sẽ một tảng sữa đông lạnh như cục đá. Bà vui vẻ bỏ nó vào ấm trà thế là sữa trắng nhanh chóng hòa tan nước trà màu hồng. Mùi sữa thơm bay ra khắp nơi, mang theo chút đắng của trà.
Bát trà sữa đầu tiên được cô Nhạc Mã đưa cho ông lão Trang Chu Trát Bố còn bát thứ hai được bà nhét vào tay Lâm Tuyết Quân.
Cô uống hai ngụm mới nhận ra những người lớn như chú Hồ Kỳ Đồ còn chưa có trà mà cô đã uống trước. Vừa ngẩng đầu cô đã thấy chú Hồ Kỳ Đồ và mọi người đều mang theo yêu thương và rộng lượng mà nhìn mình, hoàn toàn không để ý.
Sau khi ăn thịt, uống canh, bọn họ ngồi bên lửa trại ung dung thưởng thức trà, để mặc gió tuyết gào thét bên ngoài cũng không thể quấy rầy sự bình yên này.
Anh Ô Lực Cát lặng lẽ uống hết nửa bát trà sữa thì móc một cái đàn Mã Đầu từ một cái tráp dài anh vẫn đeo trên lưng.
Cái đàn đã rất cũ nhưng có thể thấy nó được anh Ô Lực Cát bảo quản rất khá. Ngón tay thô ráp như vỏ cây của anh gẩy qua dây đàn và khi anh bắt đầu kéo đàn thì vẻ trầm mặc chất phác của anh dần thay đổi.
Những âm thanh mang theo thê lương và hào hùng tuôn ra ào ạt như nước. Theo động tác kéo đàn và lắc lắc đầu thì vẻ mặt anh cũng dần vui vẻ hẳn lên.
Chị A Như Ôn Tra Tư (Arüünchass) vẫn luôn bận rộn khâu mũ nãy giờ nhưng hiện tại cũng ngừng, ánh mắt rốt cuộc cũng ngước lên và nhìn chồng mình.
Trong tiếng Mông Cổ thì A Như Ôn Tra Tư có nghĩa là tuyết rơi đúng lúc. Chị là một người phụ nữ phúc hậu, khuôn mặt rất xinh đẹp, nét nào ra nét đó. Khác với khuôn mặt đầy nếp nhăn trông có vẻ già nua của anh Ô Lực Cát, chị ấy có vẻ ngoài trẻ trung, đôi mắt to tròn khác hẳn chồng. Đôi mắt và khuôn mặt chị đều tròn, đều đáng yêu.
Lần đầu tiên nhìn thấy vợ chồng họ, Lâm Tuyết Quân còn tưởng họ là cha con. Sau đó cô từng khó hiểu vì sao chị dâu lại gả cho một người có vẻ ngoài già nua như anh Ô Lực Cát? Đã thế vợ chồng họ còn rất hòa thuận, chị A Như hình như cũng không hề ghét bỏ vẻ ngoài khó coi của chồng mình.
Hiện giờ rốt cuộc cô cũng đã có đáp án.
Chị A Như lặng lẽ nhìn chồng, từ trong xương cốt lộ ra sự tin cậy và yêu thương dành cho anh mà chẳng cần những lời tỏ tình cuồng nhiệt.
Đàn Mã Đầu vang lên những tiếng lúc trầm lúc bổng, khi lại tang thương và dài lâu.
Trong âm thanh ấy, linh hồn Lâm Tuyết Quân bắt đầu cúi đầu ăn cỏ.
Cô cầm bát trà và hơi híp mắt nhìn anh Ô Lực Cát đang kéo đàn sau đó cảm nhận niềm vui của chị A Như.
Tháp Mễ Nhĩ ngồi xuống bên cạnh Lâm Tuyết Quân, chân cong lại, hai tay gác trên đầu gối. Anh cũng ngẩng đầu chăm chú nghe anh Ô Lực Cát kéo đàn Mã Đầu.
Lão Trang Chu Trát Bố là người đầu tiên mở miệng hát theo tiếng nhạc: “Bóng đêm mỹ lệ lặng lẽ, thảo nguyên chỉ còn tiếng đàn, muốn viết lá thư cho em gái phương xa nhưng tiếc là không có người giúp đưa thư tình, chờ tới khi tuyết trắng ngàn dặm tan đi, chờ gió xuân thổi qua thảo nguyên……”
Giọng hát khàn khàn của ông lão rất hợp với đàn Mã Đầu và tạo ra cảm xúc rung động khó nói nên lời.
Rồi Tháp Mễ Nhĩ cũng cất giọng trong trẻo. Bên kia đống lửa trại là tiếng ca hồn hậu của chú Hồ Kỳ Đồ và rồi A Mộc Cổ Lăng cũng góp thêm tiếng hát của thiếu niên còn chưa vỡ giọng.
Cô Nhạc Mã và con trai nhỏ cũng kéo ghế và tham gia. Những giọng ca thuộc âm sắc khác nhau cùng hòa quyện theo tiếng đàn Mã Đầu, theo tiếng gió đêm, tiếng sói tru nơi xa và tiếng bò thi thoảng kêu vang ở ngay bên cạnh… Trong hoàn cảnh tàn khốc nhất lại sinh ra thứ nghệ thuật động lòng người nhất.
Lâm Tuyết Quân hưởng thụ màn trình diễn không gì sánh kịp trước mắt. Người trên thảo nguyên thật hạnh phúc, lúc nào cũng có thể thưởng thức tiếng ca kỳ diệu này.
Chú Hồ Kỳ Đồ lấy ra bình rượu sữa ngựa quý báu của mình và đưa cho lão Trang Chu Trát Bố uống một ngụm. Sau đó ông ấy uống một ngụm, rồi đưa cho anh Ô Lực Cát.
Mọi người cứ thế truyền tay nhau uống rượu như trò chơi đánh trống truyền hoa. Sau khi Tháp Mễ Nhĩ uống một ngụm thì đưa cho Lâm Tuyết Quân.
Cô chưa từng uống rượu cao độ như thế này, dù là kiếp trước hay kiếp này. Vừa nâng bầu rượu lên và chỉ ngửi mùi cô đã cảm thấy say. Cô chỉ dính chút rượu lên môi rồi liếm thì thấy vị cay xộc thẳng lên đỉnh đầu, kích thích khiến nước mắt nước mũi trào ra.
Vì thế cô vội đưa nó cho A Mộc Cổ Lăng và đồng thời thề sẽ không bao giờ chạm vào thứ đáng sợ này nữa.
Tháp Mễ Nhĩ thấy cô như thế thì bật cười, đôi mắt sáng lấp lánh cong thành hai mảnh trăng non.
Lúc thu lại ánh mắt, anh hỏi: “Em bao nhiêu tuổi rồi?”
“16.” Lâm Tuyết Quân uống một ngụm trà để hòa tan vị rượu cay.
Tháp Mễ Nhĩ mơ hồ lẩm bẩm một tiếng và vươn tay chống má nhẹ thở dài.
“Người Mông Cổ thật nhiều tài nghệ.” Lâm Tuyết Quân không biết anh đang nghĩ gì nên quay đầu cảm thán một câu.
“Khi người ta bị gió tuyết vây trong nhà mấy tháng không thể ra ngoài thì mấy thứ như âm nhạc, nghệ thuật tự nhiên sẽ ngấm vào sinh mệnh.” Tháp Mễ Nhĩ nhìn lửa trại và vừa thất thần vừa đáp.
“Oa! Anh nói chuẩn quá.” Lâm Tuyết Quân ngẫm nghĩ lời anh nói và cảm thấy thực sự đẹp, cũng rất triết lý.
Tháp Mễ Nhĩ quay đầu nhìn đôi mắt sáng bừng hứng thú của cô, lại nhìn cô nhướng mày tán thưởng lời mình nói thì mặt đỏ lên.
Anh cào cào thái dương và lại tiếp tục nhìn lửa trại. Phần da bên mái bị anh gãi thì hơi đỏ lên và nó như căn bệnh, cứ thế lan ra mặt rồi xuống cổ.
Anh vươn bàn tay to xoa phần cổ nóng bừng và nghiêng người giấu mặt giữa hai đầu gối rồi rũ mắt nhìn viên đá kẹp trong đôi giày của mình.
Bên đống lửa trại, mọi người lần lượt hát vang. Chị A Như còn đứng dậy nhảy một đoạn múa lắc vai của người Mông Cổ khiến mọi người cười ha ha sau đó họ lại tiếp tục hát.
Thảo nguyên tĩnh lặng, những người dân du mục tìm niềm vui trong cái khổ và gian nan tiêu pha thời gian, chống đỡ ban đêm rét lạnh vô tận.
Con sói con đã ngủ được một giấc ngắn và tỉnh lại tiếp tục gặm cục xương A Mộc Cổ Lăng mới đưa cho nó.
Tháp Mễ Nhĩ vẫn cảm thấy không cam lòng vì bản thân không bắt được linh dương. Anh nói mình nặng hơn A Mộc Cổ Lăng nên ngựa không chạy nhanh được và không bắt được con mồi.
Năm trước đại đội nuôi được vài con ngựa tốt, hoàn toàn có thể cưỡi chúng đi săn sói. Nhưng cuối đông năm ngoái rất nhiều ngựa tốt bị chết, phần còn lại đều được mang đi làm ngựa chiến và phục vụ công tác. Cũng vì thế mà Tháp Mễ Nhĩ không có con ngựa tốt nào.
Đám ngựa non mới sinh năm ngoái mà có thể chịu đựng qua mùa đông này thì tới xuân và hạ là có thể phân biệt xem con nào là ngựa tốt. Nếu tụi nó sống sót nhiều thì có lẽ anh sẽ được chia một con và có thể đi sâu vào trong thảo nguyên để săn sói và linh dương.
Săn linh dương là một công việc tốt, như thế người một nhà có thể ăn thịt, thậm chí có thể bán cho Cung Tiêu Xã để đổi dầu với vải dùng trong một năm. Nếu may mắn săn được linh dương lớn và bắt được nhiều thì có thể mua gạo, bánh bao, mùa đông cũng được ăn gạo và mì. Đó là cuộc sống mà ai trong đại đội này cũng thèm khát.
Tháp Mễ Nhĩ nghĩ tới ngày tươi đẹp ấy thì cảm thấy mình không sợ mệt và nguy hiểm, không sợ chân bị chai đi, cũng không sợ gió thổi khiến mặt nứt nẻ. Có thể giúp gia đình sống tốt hơn, để cả nhà có thịt ăn, có quần áo mới, trải qua mùa đông ấm áp thì anh cũng có thể thẳng lưng làm người.
Lâm Tuyết Quân cũng tiện thể nói tới nguyện vọng của anh. Tháp Mễ Nhĩ chỉ hy vọng mọi người bên cạnh mình đều khỏe mạnh, không bị bệnh tật.
Nguyện vọng này thật bình thường nhỏ nhoi nhưng với anh thì rất khó để đạt được.
“Thật ra anh không phải con cả trong nhà. Trên anh còn có 2 người anh trai và một chị gái. Từ nhỏ chị anh đã bị bệnh tim do sinh non. Chị ấy luôn bị sốt, không được xúc động, cũng không thể khóc nếu không sẽ phải nằm trên giường. Vốn dĩ chị ấy đã sống được mười mấy năm không có vấn đề gì, nhưng tới năm 17 tuổi bỗng chị ấy bị đau tim. Trong trời tuyết lớn mà ba vẫn cưỡi ngựa đi tìm bác sĩ. Lúc bác sĩ tới nơi đã là 2 ngày sau, thi thể chị anh đã cứng lại.”
Tháp Mễ Nhĩ đếm đếm đầu ngón tay và nói: “Anh cả của anh sinh ra chưa được bao lâu đã mất. Năm ấy gia súc bị dịch bệnh nên chết rất nhiều, dân chăn nuôi khắp vùng đồng cỏ đều khó sống. Mẹ mang thai anh cả nhưng toàn bị đói, lại thiếu dinh dưỡng, cũng không được nghỉ ngơi nên anh cả ra đời chẳng bao lâu đã mất. Đó là đứa con đầu lòng của ba nhưng bị Trường Sinh Thiên đòi lại.
Anh hai vốn rất khỏe mạnh. Ba thường nói anh ấy rất thông minh, lại luôn nghịch ngợm. Lúc 7 tuổi anh ấy bị sốt và không có bác sĩ nên phải cắn răng tự vượt qua. Tới khi hết sốt thì đầu óc và cổ họng của anh ấy đã bị hỏng, từ đó biến thành đứa ngốc bị câm.
Khi anh còn nhỏ thường đùa nghịch với đám trẻ con trong khu chăn nuôi nhưng toàn thua. Anh hai tuy ngốc nhưng luôn giơ cái ách lên giúp anh đánh tụi nó. Bọn nhỏ đều sợ anh ấy và không dám bắt nạt anh nữa.
Sau đó vào một mùa hè, anh hai đi chăn gia súc về và nóng quá nên ra sông tắm…… Hai ngày sau mọi người mới vớt được anh ấy ở hạ du, người cũng ngâm nước đến sưng phồng lên.
Mấy năm ấy mẹ thường xuyên vừa làm việc vừa ngây người. Ngây người xong bà lại lặng lẽ lau nước mắt. Lúc hoàn hồn bà sẽ kéo anh tới bên cạnh và không cho anh cưỡi ngựa vì sợ anh ngã chết. Bà cũng không cho anh đi chăn gia súc vì sợ sói ngậm anh đi. Có đôi khi bà lại chẳng để ý tới cái gì, chỉ hoảng hốt cả ngày. Ba đi chăn gia súc về mới phát hiện anh đi theo mẹ và cả ngày không được ăn cái gì……
Lúc anh mười mấy tuổi từng có cơ hội làm phi công, nhưng mẹ khóc đến độ muốn mù nên anh không đi nữa…”
Tháp Mễ Nhĩ nói tới đây thì hoảng hốt nhìn về phía cô Nhạc Mã, trong đôi mắt có đau lòng. Thiếu niên mới 19 tuổi mà đã mang vẻ mặt tang thương đến thế.
Con người anh vốn đã trở nên thô ráp do lăn lộn trong tuyết lớn thế mà giờ lại có vẻ rách nát, tiêu điều.
Anh lại thở dài và giấu đi khát vọng với tương lai, với tự do nơi đáy mắt. Nơi đó chỉ còn lại tiếc nuối và bất đắc dĩ vì vĩnh viễn không thể cao chạy xa bay.
Lâm Tuyết Quân vươn tay muốn vỗ vai anh nhưng bỗng anh nhỏ giọng hốt hoảng: “Ấy, sói con!”
Hóa ra lúc thở dài anh đã tiện tay thò tới xoa xoa con sói con dưới ghế của Lâm Tuyết Quân và bị nó cắn một miếng.
Vì thế anh căm giận nói: “Chưa chắc đã có thể nuôi được nó. Lúc trước có người cũng nuôi sói nhưng nó lớn lên vẫn mang dã tính và cắn cừu trong nhà. Sau đó họ đành ném nó ở nơi biên cảnh xa xôi nên nó biến thành một con sói cô độc. Nó ở bên đó ăn chuột và thỏ hoang nên cũng coi như giúp đóng góp cho thảo nguyên này, giảm bớt số lượng hang chuột.”
“Không sao, vốn nó đã khó mà sống qua mùa đông này. Nếu tương lai có thành con sói cô độc thì ít nhất cũng còn sống.” Lâm Tuyết Quân cảm thấy mình cũng đã nhiễm sự phóng khoáng của con người trên thảo nguyên.
Chuyện tương lai thì cứ để tương lai lo.
Tháp Mễ Nhĩ duỗi tay đè đầu con sói nhỏ để nó không động đậy được. Thế là con vật tức quá gào ầm lên còn anh thì vừa lòng thu tay khi đã báo được mối thù vừa rồi.
Cảm xúc u sầu rách nát vừa rồi cũng biến mất, chỉ còn lại ý cười xấu xa.
Hai tay anh xoa gối và nhìn lửa trại sau đó kể cho Lâm Tuyết Quân nghe về những chuyện ở thảo nguyên.
Hiện giờ cô Nhạc Mã đã thoát khỏi nỗi đau mất con và cuộc sống của người dân du mục cũng ngày càng tốt hơn. Bây giờ họ có y tá, có cán bộ thú y……
Đầu xuân năm trước, phía bắc núi Đại Hưng An có cháy lớn và rất nhiều bộ đội được cử đến dập lửa. (Truyện này của trang runghophach.com) Đám gấu, lợn rừng, cáo, chồn đều bị dọa chạy khắp nơi. Ngày thường tụi nó gặp nhau sẽ đấu đến chết mới thôi nhưng lúc đấy tụi nó không những không đánh nhau mà còn cùng nhau trốn. Người dập lửa gặp gấu thì sợ mất mật, nhưng kết quả gấu chả thèm tấn công mà vung chân chạy trối chết. Năm ấy có nhiều dã thú chạy tới ngọn núi sau lưng đại đội khiến bọn họ thường xuyên mất đồ ăn. Hôm nay mất gà, ngay mai mất bánh bao……
Lâm Tuyết Quân nghe anh nói liên miên thì móc cái kèn harmonica mình mang theo bên cạnh và dùng lòng bàn tay xoa xoa thân kèn thử thổi. Tiếng nhạc vui vẻ lập tức vang lên.
Điệu nhạc cô thuộc nhất chính là Ode an die Freude của Bethoveen. Vì thổi chậm nên điệu nhạc vốn nhẹ nhàng bỗng trở nên dài lâu.
Tiếng kèn của cô rất nhỏ, không bằng đàn Mã Đầu của anh Ô Lực Cát ở phía bên kia lửa trại. Làn điệu nhẹ nhàng chậm chạp và vui sướng bị bao phủ trong tiếng ca của người dân du mục. Chỉ có Tháp Mễ Nhĩ nghiêng đầu lại gần mới nghe được.
Lâm Tuyết Quân cúi đầu nhìn lén thiếu niên đang ngồi xổm ôm đầu gối ở bên cạnh. Cái mũi thẳng của anh đỏ lên do lửa trại, đầu hơi nghiêng về phía này và lắng nghe tiếng nhạc, lông mi nhẹ khấp khởi.
Lửa trại hong nên mái tóc hơi dài của anh bay bay, phất qua nếp uốn ở khuỷu tay trên cái áo da dê của cô.
Lúc trước cô và A Mộc Cổ Lăng cùng nhau đè Tháp Mễ Nhĩ trên tuyết và nhét tuyết vào cổ áo của anh mà không hề nương tay. Giờ đây cô nhìn thiếu niên phải lớn lên trong những trắc trở của gia đình, bị tình thân trói buộc lại vẫn rộng rãi phóng khoáng này thì ánh mắt cũng dịu dàng hơn.
Tiếng kèn harmonica vui sướng, mềm mại không quá hợp với trời đông giá rét, cũng không hợp với bóng tối lặng lẽ nơi xa thăm thẳm nhưng Tháp Mễ Nhĩ vẫn chăm chú lắng nghe, giống như anh thực sự thích nó.
Ông lão Trang Chu Trát Bố nói nửa đêm sẽ có tuyết lớn nên đám đàn ông sẽ vây quanh lửa trại uống trà nói chuyện chứ không được ngủ. Thi thoảng họ phải giúp súc vật quét tuyết đọng, đào hố đề phòng bầy sói và thi thoảng lùa những con bò về trong đàn để sưởi ấm. Họ còn phải kiểm tra lều có thông khí hay không……
Nhưng trước khi tuyết rơi xuống mọi người cũng không cảm thấy sợ hãi. Bọn họ vẫn vây quanh lửa trại ca hát và thản nhiên chờ đợi tương lai.