Chương 33 (2)
Sáng sớm ngày hôm sau cô dậy sớm làm việc. Lúc này cô đã qua cái tuổi coi tình yêu là trên hết và thấy rằng sinh kế mới là thứ quan trọng nhất. Cô không cho Trần Cường Thắng tới bởi anh còn có công việc của mình và phải làm thật tốt. Mặc kệ là sương sáo hay rau câu đều là thứ dễ làm. Hôm qua cô làm tốt là hôm nay có thể mang đi bán.
Nhưng đi đâu cô cũng đội mũ và chỉ chỉ mặt mình sau đó nói với Giang Doanh Tri và mọi người: “Không phải chị ghét bản thân nhưng chị sợ dọa người tới mua hàng.”
Cô cũng muốn mang theo con gái đi bày quán thế là Tiểu Mai lập tức nói: “Thế thì tốt quá. Chị mang Tú Tú thì em cũng mang Hải Oa theo để tụi nó chơi với nhau. Nếu không lại phải phiền bác dâu cả trông nó. Hiện tại cũng đang xây nhà nên không cần trông coi gì.”
Mọi người đều không có ý kiến gì và vui mừng đi bày quán.
Một người đàn ông phe phẩy quạt hương bồ và đi tới tấm tắc, “Hôm nay cả nhà đều tới à? Nhiều người thế nhỉ! À, bán cái gì đó?” Anh chàng chỉ chỉ cái thứ trong suốt bỏ trong chậu nước được đậy bằng vải.
Chu Phi Yến cũng lập tức nhiệt tình đáp, “Là rau câu đó anh.”
Trần Cường Thắng đang bận rửa bát nghe thế thì lập tức nói: “Anh Vương ăn thử không? Hai xu một bát, còn thêm nước đường đỏ.”
“Vậy cho một bát đi, cái kia cũng lấy một phần,” anh chàng cầm quạt quay đầu nói với Giang Doanh Tri nói, “Anh rất là ủng hộ việc làm ăn của mấy đứa nhé. Cùng là một nhà nên mỗi món anh ăn một chút, hai bên đều vừa lòng.”
Giang Doanh Tri đưa cho anh một bát thịt băm, “Anh cầm về thêm cơm. Anh ủng hộ như thế nên bọn em cũng không thể quá keo kiệt được.”
Anh chàng quạt hương bồ lập tức cười và đón lấy, “Vẫn là anh được lời.”
Chờ anh chàng ngồi xuống ăn sương sáo Chu Phi Yến quấy thì lập tức khen, “Cái này ngon nè, còn trơn mềm hơn cả miến trộn. Cái kia có mùi mì, cái này có mùi biển. Em gái à, cho anh thêm hai phần để anh mang về cho người nhà ăn.”
Lúc A Thanh tới thì thấy anh chàng thế là cười nói: “Cửa hàng quạt hương bồ của anh xa thế mà ngày nào anh cũng tới đây. Có miếng ăn thì quạt cũng không cần bán nữa hả?”
Cô nhìn cái sạp nhỏ mới bày rồi lại nhìn Chu Tú Thủy với Hải Oa đang ngồi xổm trên mặt đất chơi xếp vỏ sò thì tò mò, “Mấy người này là?”
Giang Doanh Tri giới thiệu, “Đây là chị Tiểu Yến, còn phía sau là hai đứa em của em. Em mang tụi nó tới đây chơi, con bé nhà chị không bận gì thì cũng tới đây chơi cùng luôn. Tụi em múc nước đường cho nó.”
“Ấy, thế thì tốt quá. Ngày nào nó cũng ở cửa hàng và không có bạn chơi cùng. Để chị gọi Tiểu Lục tới, đúng lúc nó vừa mới mua một còn gà trống đồ chơi bằng giấy, bên trong có cái còi. Nó thổi điếc hết cả tai,” A Thanh vội vàng nói, “Em gọi nó tới thì chuẩn bị tinh thần mà chịu đựng đi nhé.”
Tiểu Lục nhanh chóng tung tăng nhảy nhót tới. Con bé tết mấy bím tóc nhỏ, mặt đen cháy vì suốt ngày chạy dang nắng bên ngoài. Nhưng miệng nó lại cực kỳ ngọt, “Chị Tiểu Mãn, anh Cường Tử, chị Tiểu Mai.” Vì không quen Chu Phi Yến nên con bé chỉ gọi, “Chào chị.”
Chào xong nó chạy như chớp đến phía sau chơi với Hải Oa và Tú Tú. Trẻ con chỉ một lát đã thân thiết và chơi chung với nhau.
Sau đó khách khứa tới ăn cơm phải nghe một bản “loạn nhạc”.
Hải Oa thổi ốc biển, Tiểu Lục ngồi ở giữa thổi gà trống, Tú Tú ngồi bên cạnh thổi ốc biển nhưng không kêu nên chỉ có thể gõ hai thanh trúc. Trong khoảng trống nho nhỏ toàn tiếng cười.
Ồn thì ồn thật nhưng cũng náo nhiệt.
Đặc biệt là khi ông lão họ Trần làm nghề kể chuyện vào hùa với tụi nó. Ba đứa nhỏ thổi tán loạn còn ông ấy thì kể chuyện, vừa kể vừa rung đùi đắc ý khiến người tới ăn cơm nghe đến mê mẩn.
Những ngư dân tới xin bát nước đường miễn phí cũng ngồi xổm bên cạnh nghe và hoàn toàn không thấy khó chịu, cũng không thấy mùa hè này nóng bức quá. Họ còn khen không tiếc lời.
Chu Phi Yến vốn còn thấp thỏm bất an nhưng lúc này cô hoàn toàn yên tâm nói với Giang Doanh Tri: “Chỗ này thật tốt.”
Giang Doanh Tri nói: “Về sau quen biết rồi chị sẽ thấy càng tốt hơn.”
Rồi cô gọi, “Đừng thổi nữa, khản giọng đó. Mấy đứa tới đây uống nước đường đi.”
Có nhiều trẻ con tới sạp nên ngoài đống bát đi thuê lúc trước, Giang Doanh Tri cũng mua một ít bát và thìa nhỏ để trẻ con ăn. Lúc này ba đứa thành thật ngồi bên bàn nhỏ ôm bát rau câu và hớn hở ăn. Tụi nó không cãi nhau hay làm ồn nữa vì như thế sẽ không có nước đường.
Cả một ngày đó ngoại trừ việc nóng bức thì ai cũng vui vẻ, dù là Hải Oa và Tú Tú ôm bánh ăn trên đường về nhà hay Chu Phi Yến đếm đi đếm lại số tiền kiếm được.
Ngày hôm nay là thứ cô chưa bao giờ dám mơ.
Từ ngày đó trở đi mọi người dần quen với việc sạp có thêm món mới, thêm người mới và chậm rãi thân thiết.
Nhưng có một hôm Vương Tam Nương tới tìm Giang Doanh Tri với bộ dạng cực kỳ tức giận. Sau đó không biết cô nói gì mà bà vỗ tay hớn hở rời đi.
Hóa ra bọn họ bận rộn bày quán nên ít gặp những người ở Tây Đường Quan. Họ ở cũng xa nên những lời đồn đãi không truyền tới tai họ. Nhưng Vương Tam Nương ở ngay giữa khu dân cư của Tây Đường Quan nên từ khi Chu Phi Yến tới đây là mọi người đều sẽ hỏi bà hai câu mỗi khi gặp mặt, và lần nào cũng phải chọc vào nỗi đau của bà.
Ban đầu bà cũng ôn tồn nói với Trần Hải Châu: “Chị cũng biết tính toán của hai đứa nhỏ. Chị sống tới tuổi này rồi, kể cả đời này Cường Thắng không lấy vợ thì chị cũng chấp nhận. Trước kia chị thực sự muốn thắng. Thấy Tiểu Yến lấy chồng, chị chỉ ước gì Cường Thắng cũng lập tức tìm được một mối càng tốt hơn. Khi đó chị cũng ngóng trông có cháu để nối dõi tông đường nhưng cuối cùng vận may của nhà chị không tốt, chuyện xấu cứ liên tiếp ập tới.”
“Hiện tại con bé tới, tình cảm với Cường Thắng vẫn còn đó nhưng chị đâu có nhất thiết phải ép uổng nó gả cho nhà mình, sửa tên con gái nó rồi bắt nó sinh cháu cho mình. Thế thì thật sự quá đáng. Cường Thắng có cái gì? Quyền, tiền, nhà to rộng hay một cái chân khỏe mạnh? Tiểu Yến có thể đồng ý cùng nó đi qua nửa đời sau là chị đã thấy đủ rồi. Kể cả nó có gả tới đây thì mấy cái miệng kia sẽ im chắc!”
Vốn dĩ Trần Hải Châu cũng nghĩ thoáng nhưng ở Tây Đường Quan có không ít người điêu toa và thầm nói nhà lão Trần đúng là xui xẻo, coi như đứt hương hỏa.
Vốn dĩ người đã tới đây, chỉ cần lập hôn thư, sửa họ cho đứa con gái và sớm sinh một đứa con là tốt nhưng bọn họ lại chẳng làm gì, đúng là ngốc.
Chuyện này khiến Vương Tam Nương cực kỳ tức giận nhưng nghe Giang Doanh Tri nói thế là bà không tức nữa. Sáng hôm sau bà gọi những kẻ hay thích nói xấu ở Tây Đường Quan tới và chuẩn bị dạy cho họ một bài.
Bọn họ tụ tập lại và không biết bà định làm gì nên nghi hoặc nhìn quanh. Có người nhỏ giọng nói không biết có phải Vương Tam Nương càng nghĩ càng hối hận nên mới gọi bọn họ tới để xin lời khuyên hay không.
Vương Tam Nương chắp tay sau lưng và hừ lạnh một tiếng rồi nói: “Mấy người cứ nói tôi ngốc và nhanh chóng ép người ta sinh con cháu nối dõi cho nhà họ Trần.”
Bà nói rất to những lời Giang Doanh Tri đã dạy, “Thế tôi xin hỏi, nối cái gì dõi cái gì? Con mấy người sinh ra có mang họ của mẹ không? Có nối tiếp dòng dõi của mấy người không?!” Vương Tam Nương chỉ vào một người phụ nữ lùn đứng gần đó, “Vương Thúy Hoa, cô sinh cho nhà lão Chu 5 đứa con nhưng có đứa nào mang họ cô không? Mẹ chồng cô cũng ngu, cả nhà đều họ Chu, chỉ có mẹ chồng con dâu nhà cô là khác họ. Đã thế bà ta còn hành hạ cô, nhưng những người khác trong nhà có ai nói giúp cô lời nào không?”
“Khổ thế còn ngày ngày mong cái gì mà nối dõi tông đường. Sao cô không làm con cá đẻ trứng đi cho rồi! Biển to như thế còn chưa đủ chỗ cho cô đẻ trứng hay sao mà mỗi ngày đều chọc vào chỗ khổ của người khác hả? Tôi thích sống thế đó.”
Mặt Vương Thúy Hoa đỏ bừng, tay run run chỉ, “Bà, sao bà nói thế hả? Sao bà lại chọc vào chỗ đau của người khác hả?!”
Nhưng nghĩ kỹ lại thì thấy cũng đúng và bà ta cảm thấy vô cùng hụt hẫng. Bà ta cảm thấy Vương Tam Nương và Chu Xảo Nữ có thể làm chị em dâu là vì cả hai đều độc miệng.
Vương Tam Nương liếc bà ta một cái và hừ hừ, “Các người mắng người khác ngốc nhưng nhìn lại mình xem có thông minh không. Ít nhất người ta mang thai 10 tháng sinh được đứa con mang họ mình. Vậy thì liên quan gì với mấy người mà cứ suốt ngày hỏi đông hỏi tây, phiền muốn chết.”
Đương nhiên Vương Tam Nương cũng cáu tiết với việc này nhưng bà có thể thua người chứ không thua trận. Bà nhất định phải mắng những kẻ này một lượt mới dễ chịu.
“Hàng đêm tôi sẽ khóc đến độ Vọng Hải cũng phải khô. Tôi múc nước ở Vọng Hải xối vào nhà mấy người, đổ lên đầu cho các người biết thân!”
Bà mắng xong thì lưu loát rời đi và để lại những người kia nhìn nhau. Sau lần ấy không còn ai dám nói ra nói vào nữa.
Dù thế nào thì sau trận mắng này mọi người cũng thực sự ngừng bàn tán lại. Bọn họ cũng không dám hóng chuyện của nhà người khác nữa, dù ngẫu nhiên tới xem náo nhiệt cũng không muốn đụng mặt Vương Tam Nương. Sau lưng họ vẫn nói vài câu bởi rất ít khi có trò hay để xem như thế này.
Ngày ngày trôi qua ở Tây Đường Quan một cách bình thản, thi thoảng trộn lẫn chút náo nhiệt và gà bay chó sủa. Còn với người ra biển thì ngẫu nhiên sẽ gặp ngày trời trong, ngẫu nhiên sẽ là những lúc tính mạng cheo leo.
Tới lúc này Ô thuyền đã rời khỏi Vọng Hải, đi tới cửa biển phía đông nơi tứ phía là đá ngầm và không thấy bất kỳ hòn đảo nào. Ngư dân gọi nơi như thế này là “cửa sóng”, hoặc nói trắng ra là quỷ môn quan.
Đá ngầm xen lẫn với những đảo đá rải rác khắp nơi, muốn đi qua thì thuyền trưởng phải cực kỳ cẩn thận.
Vương Phùng Niên đứng cạnh bánh lái còn Vương Lương thì hoan hô, “Qua rồi, qua quỷ môn quan rồi!”
Những ngư dân khua mái chèo cũng hoan hô và nhẹ thở ra. Họ nghĩ tới buổi tối lão Vương sẽ nấu cái gì. Mấy ngày nay ra biển bọn họ đều dễ chịu. Không còn cá khô mặn chát chưng với cơm, có đôi khi còn được ăn trứng chưng, tuy không nhiều, mỗi người được một bát nhỏ nhưng cũng đủ để họ ăn vui vẻ.
Họ còn có thể ăn một bát mì trộn. Thịt vụn kia quả thực thơm, quấy lên là cả bát mì đều ngon lành đến độ họ chỉ muốn liếm bát.
Những người chèo thuyền cười hì hì và nói: “Lúc nãy tôi ngửi được mùi chè đậu xanh, lát nữa chắc chắn sẽ có chè đậu xanh để uống.”
“Nghĩ tới việc qua được cửa này là sẽ tới biển cả rộng rãi là lòng tôi đã thoải mái.”
Nhưng họ vui và yên tâm quá sớm.
Mặt biển bất ngờ thay đổi, phía tây có mây đen chứng tỏ nơi ấy đang có gió lốc. Mây đen từ xa cuồn cuộn bay tới, mưa lớn bắt đầu rơi xuống mà không hề báo trước. Bọn họ vừa qua khỏi bãi đá thì mưa gió đã phủ xuống.
Ngư dân hô to, “Sóng bẩn kìa!”
Đó là cách bọn họ gọi những con sóng lớn nguy hiểm. Chúng nó khổng lồ và còn được gọi là biển mở miệng hoặc quỷ đòi ăn.
Người chèo thuyền cuống quít móc từ túi treo bên trên một nắm gạo trắng và rải xuống biển cầu mong sóng biển yên ổn nhưng hiển nhiên cách này chẳng có ích lợi gì. Vừa thoát khỏi cửa quỷ lại tiến vào bão tố.
Sương mù bắt đầu tản ra, sóng triều dâng lên càng ngày càng cao. Lá cờ dùng để kiểm tra tốc độ gió bị thổi bay, sóng đánh vào con thuyền khiến nó lắc lư giống như có bàn tay to đang kéo nó lên và ngắm nhìn.
Người canh gió cũng rất khó tiến vào còn Vương Phùng Niên đã mất đà khiến cả con thuyền quay cuồng trong sóng biển.
Vương Lương đã không nhịn được muốn nôn nhưng Vương Phùng Niên lại túm lấy anh, mặt lạnh lẽo nói: “Bây giờ cậu canh bánh lái cho tôi sau đó lái về phía tây nam. Nghe rõ chưa? Trông coi bánh lái cho cẩn thận!”
Anh chàng cố nén cảm giác buồn nôn, trước mắt thì mơ hồ nhưng vẫn cắn răng nói: “Tôi sẽ không ngã, bánh lái cũng sẽ không đổ!”
Vương Phùng Niên mở cửa đi ra ngoài và mưa to lập tức xối ướt người anh. Mưa theo gió to đập vào người như đá, sóng triều cuồn cuộn, nhìn ra xa chỉ mơ hồ thấy một màu đen khủng bố bao phủ lấy họ.
Trong lúc những người chèo thuyền bó tay không biết làm thế nào và trượt chân ngã ở boong thuyền thì Vương Phùng Niên gõ trống khẩn cấp. Ở trên biển thì quân lệnh không bằng hải lệnh, nó vừa vang lên thì dù có phải bò họ cũng cần đi qua.
Đầu sóng càng ngày càng mạnh, còn Vương Phùng Niên thì bình tĩnh ra lệnh, “Đại Thụ, đi mở cửa ống đi!”
Đó là đường thoát nước của Ô Thuyền thế là Đại Thụ vội bám lấy boong thuyền và chạy về phía sau.
“A Thành, kéo trường lực xuống, lát nữa lại kéo lên!”
Trường lực là dây thừng điều khiển buồm chính. Ở trên biển thì ngoài việc cầm lái, buồm cũng là thứ quan trọng giúp con thuyền thuận lợi di chuyển. Người ta thường nói khi gió nhẹ phất qua mặt thì giương buồm, khi gió to bão tố thì hạ buồm.
Vương Phùng Niên tiếp tục nói: “Đi thôi, mấy người ôm lấy căng phong, dù có ngã thì cũng không được để cột buồm đổ!!”
Vài người đồng thời gật đầu. Căng phong là cây cột buồm, nếu nó mà đổ thì Ô Thuyền sẽ chìm ở đây luôn vì thế bọn họ vây quanh cây cột và túm chặt lấy cái móc sừng dê dùng để cố định phương hướng của buồm.
Một đám khác thì ôm lấy cột buồm lung lay sắp đổ và liều mạng giữ lấy nó.
Mặc cho gió táp mưa sa họ cũng không dám buông tay.
Hiện tại Ô Thuyền vẫn điên đảo trong sóng nước. Người quan sát hướng gió bị thương mắt nên Vương Phùng Niên đành tự mình đứng trên boong thuyền nhìn mặt biển mênh mông đủ nuốt chửng bọn họ.
Anh không có ý định lùi bước mà cố gắng phân biệt hướng và để A Thành chạy về nói cho Vương Lương.
Dưới sự chỉ huy của anh, thuyền lại lùi về cửa sóng mà ngư dân nghe được đã thấy vỡ mật chứ không đi theo hướng Đông Nam và dừng ở hải đảo khác.
Việc này khiến đám người chèo thuyền kinh sợ và nhắm mắt lại. Nếu tàu đâm phải vách đá trong thời tiết này thì bọn họ chỉ có một kết cục là thuyền nát, người chết.
Một khắc kia mọi người đều nghĩ tới người thân của mình và cắn chặt răng không khóc.
Nhưng ngay khi đến gần cửa sóng Vương Phùng Niên lại kêu: “Thả neo ——”
Người phụ trách thả neo vội dùng gậy để cạy lẫy thả mỏ neo rồi kéo sợi xích sắt nối với mỏ neo. Nhưng trong lúc hoảng loạn anh lại bị sóng đánh ngã ngửa và tuột tay.
Vương Phùng Niên lao tới túm lấy dây xích và thả neo xuống trong lúc sóng to gió lớn. Anh chuẩn xác thả neo vào hàm hổ, nơi có hai tảng đá kẹp lại khiến neo không dễ bị buông ra.
Thuyền dần dần dừng lại giữa hai vách đá. (Hãy đọc thử truyện Con đường thi cử thời cổ đại của trang RHP) Không chờ các ngư dân hoan hô thì sóng đã dâng lên cao hơn, người thả neo bị vứt lên đầu thuyền. May mà người này vội túm chặt lấy mép thuyền mới không bị cuốn trôi xuống biển. Vương Phùng Niên lao qua túm lấy anh và liều mạng kéo lên trên. Nhưng sức mạnh của sóng biển quá khủng khiếp, gần như khó mà chống lại được.
Anh túm chặt lấy người kia, chân đạp lên mép thuyền. Anh là thuyền trưởng nên dù thế nào cũng không thể từ bỏ anh em của mình. Anh cứ thế kéo, tay chết lặng, bị cắt chảy máu nhưng vẫn cố gắng kéo người kia lên. Còn nước biển thì lôi người đó xuống.
Rồi mọi người cùng nhào tới túm chặt tay người kia, con sóng cũng nhả người nên họ mới kéo được đồng đội của mình lên.
Bọn họ kiệt sức nằm trên boong tàu mặc cho sóng gió vùi dập và chẳng còn sức mà hoan hô. Vương Phùng Niên ôm vết thương đổ máu và chậm rãi đi về phía sau.
Vị trí này cực kỳ hoàn hảo. Cửa sóng vốn đầy rẫy nguy hiểm nay trở thành cảng tránh gió cho họ. Mọi con sóng đều bị đá ngầm chắn lại và Ô Thuyền không ngã nữa.
Đại phu trên thuyền lập tức rải bột mai mực lên vết thương cho anh rồi băng bó vết thương khá sâu kia. Người thả neo tên Tam Tử và lúc này anh vừa uống thuốc vừa khóc: “Đại ca, may có anh cứu em chứ không em chẳng thể về nhà. Vợ em vừa mới sinh con, cô ấy phải chăm sóc một nhà già trẻ cũng không dễ dàng.”
Vương Phùng Niên nói: “Cậu bảo vệ tốt cái mạng của mình là được, không cần cảm ơn tôi.”
Anh thay quần áo khô và mặc bộ quần áo đã nhúng qua dầu cây trẩu sau đó đi tới khoang bếp.
Lão Vương đã sớm dọn dẹp lương thực bị ngã đổ rồi gạt lệ cảm thấy may mắn vì lúc nãy trên bếp không đun cái gì.
Tất cả mọi người đều đói bụng và mệt mỏi dựa vào khoang bếp rồi cười khổ.
Môi Vương Lương trắng bệch và anh nói: “Nếu không có đại ca bảo A Thành ra lệnh cho tôi lùi lại thì tôi cũng không thể tưởng tượng được chúng ta còn có ngày trở về.”
Và chính hành động liều lĩnh này đã cứu mạng toàn bộ thuyền viên.
Vương Phùng Niên vẫn bình tĩnh nhưng hai mắt nhắm chặt, cố gắng ổn định hơi thở.
Mãi tới khi lão Vương giơ đèn dầu và cầm một cuốn sách đi tới nói: “Ông chủ đọc giúp tôi trên này viết cái gì với. Tôi nhớ rõ Giang Doanh Tri có viết về món ăn cho ngày bão.”
Đây là cuốn sổ Giang Doanh Tri viết cho ông sau khi đưa danh sách những thứ cần mua. Vương Phùng Niên đón lấy và mở ra nương ánh nến mỏng manh để đọc. Anh thấy rõ chữ của cô, rất hào phóng. Phương pháp viết của cô cũng khác những người nơi này. Người ta thường viết từ trên xuống dưới, còn cô viết ngang.
Cơm sáng ăn cái gì, giữa trưa, cơm chiều, thậm chí đồ ăn đêm đều có trong này. Ngón tay anh dừng lại trên một tờ, bên trên viết: Nếu ra biển gặp phải điều kiện khắc nghiệt (gió lốc, mưa to, đâm vào đá… ), nhưng không sao, Hải Thần sẽ phù hộ mọi người bình an, sau đó sẽ là trời trong nắng ấm. Những lúc như thế hãy ăn một bát mì nước nóng hổi, nhớ phải uống thêm canh gừng.
Phía dưới cô viết cách làm mì nước, có cách làm cho 1 người và 30 người. Ít mì, mỡ lợn, sốt ốc, tôm khô, ốc khô, một quả trứng gà luộc. Cách làm thật đơn giản, đến độ chính Vương Phùng Niên cũng có thể làm.
Lão Vương nấu mì nước cho mọi người. Lúc này ai cũng lạnh, dù đã đổi quần áo thì tay chân họ vẫn chết lặng, lại chìm sâu trong sợ hãi.
Một bát canh nóng hầm hập với mì tươi ngon trôi vào bụng khiến lòng họ cũng nóng lên. Có người ăn quả trứng gà thì không nhịn được khóc.
Suýt nữa đã mất mạng nhưng lại vẫn còn sống để ăn đồ ngon thế này. Bọn họ quả thực lại có cảm giác chân thực như đang bước trên mặt đất. Họ cảm thấy mình còn sống chứ không phải đã rơi vào nước biển lạnh lẽo và cả đêm không thể ngủ.
Sóng biển bên ngoài vẫn gào thét không ngừng nghỉ. Gió biển như quỷ khóc sói gào, mưa to như trút nhưng con thuyền vẫn an ổn ở đó. Mọi người ăn một bát mì nước nóng hổi tươi ngon rồi uống một bát canh gừng với đường đỏ cay rát.
Vương Lương vừa khóc vừa ăn, “Đời này tôi thật biết ơn Tiểu Mãn.”
Vương Phùng Niên làm cho chính mình một bát mì nước và ăn vào thì thấy rất ấm áp. Dù là trái tim hay dạ dày đều ấm làm anh nhớ tới bát mì trộn khô hôm đó.
Thật khiến người ta nhớ.
Hôm nay là tiết Tiểu Mãn và anh nở nụ cười hiếm hoi trong bóng tối rồi lặng lẽ gọi Tiểu Mãn, Tiểu Mãn.
Có lẽ hôm nay là ngày may mắn giúp họ vượt qua tất cả.