Chương 31: Mực trứng chưng thịt
Mùa mực đúng vào ngày hè. Cảng cá có bóng râm nên cũng không quá nóng nhưng ở trên biển thì ngư dân phải đội cái nắng chói chang, tay không ngừng chèo thuyền. Làn da cách quần áo cũng bị đỏ ửng lên vì nắng. Ban ngày nắng chính là lúc họ thả lưới kéo mực.
Mực thích đẻ trứng ở mép của dải đá ngầm và cơ bản đều chui sâu bên trong. Khác với thuyền vịt trắng và thuyền đóng cửa của hải ngoại, người dân Hải Phổ thích dùng xuồng, nó rất nhỏ, đầu nhọn và có thể tiến sát dải đá ngầm sau đó người ta sẽ dùng lưới kéo mực.
Họ còn đặt lồng sắt, một loại là lồng chết và được cố định một chỗ, loại khác là lồng sống và có thể di chuyển sang chỗ khác.
Ban ngày họ kéo lưới, ban đêm cũng không nghỉ. Lúc thích hợp bắt mực buổi tối thường là con nước nhỏ vào đầu tháng hoặc cuối tháng.
Có đôi khi Giang Doanh Tri dậy đổ nước vào ban đêm sẽ thấy ở ghềnh đá nơi xa có ánh lửa.
Tiểu Mai cũng nhìn thoáng qua và nói: “Họ đang kéo mực đó.”
Mực thích ánh sáng, cá đù vàng thì thầm kêu.
Thế nên ngư dân sẽ treo một quả cầu lửa cháy rực rỡ ở trên thuyền, ngay phía trên lưới sau đó lôi kéo lưới và mực sẽ ló ra, rơi vào lưới.
Cô Hải Hoa lôi kéo Tiểu Long tới đưa mực cho họ và nói với Giang Doanh Tri: “Ban đêm chúng ta đi kéo mực, tàn lửa rơi xuống lách tách, còn trong lưới thì toàn là mực. Cô biết cháu muốn mua nên mang cho cháu một thùng. May có cháu cứu Tiểu Long nhà chúng ta nên Tiểu Mãn à, phần ân tình này cả đời cô cũng không dám quên. Cô cũng nghèo, không có gì tốt đưa cho cháu. Sau này cứ ngày lễ ngày tết cô đều bảo Tiểu Long tới tặng lễ cho cháu.”
Giang Doanh Tri nhìn Tiểu Long đang tung tăng nhảy nhót chơi với Hải Oa ở một bên thì nói: “Cô muốn cảm ơn thì cháu xin nhận thùng này. Nhưng sau này mỗi ngày cô đưa tới cho cháu hai thùng. Giá mực hiện tại là –”
“Tiền nong không quan trọng. Dù cháu có trả bằng giá thị trường cô cũng không nhận,” khó có lúc cô Hải Hoa kiên quyết như thế. Sau đó bà lấy ra một thứ màu tím như san hô nhỏ và để gần cho Giang Doanh Tri nhìn rõ, “Tiểu Mãn, đây là rau dại sinh ra nơi đá ngầm. Cháu nhìn xem có thể ăn được không? Chúng ta cảm thấy cứng, giống nhai bì lợn. Cháu là người hiểu nhiều, cháu nhìn xem thế nào.”
Ánh mắt Giang Doanh Tri sáng ngời. Đây chính là hải thạch hoa hay còn gọi là thạch trắng. Vùng bình nguyên sông nước người ta dùng hạt của cây thạch đen làm sương sáo. Còn vùng duyên hải của họ thì dùng thứ này làm sương sáo. Chỉ cần 2-3 lạng thạch trắng phơi khô là đủ làm 5-6 cân sương sáo.
Ở những nơi bên ngoài Hải Phổ như Hải Châu, người ta dùng nó làm súp, gọi là thạch rau câu, ăn mặn hoặc ngọt đều được.
Dùng nó làm rau trộn cũng được, tuy cô không thích vị giòn của rau này. Thạch trắng tươi nhìn giống dây thần kinh chằng chịt, vào mùa hè ăn chút rau trộn cũng coi như đổi món.
Lúc này cô vui vẻ cao giọng nói, “Cô Hải Hoa hái nhiều bán cho cháu đi.”
“Tiểu Mãn, cô cũng muốn nói luôn. Mực cô có thể để giá rẻ cho cháu nhưng cái này thì khó. Bởi chúng ta phải chèo thuyền đi men mép đá ngầm để đào.” Cô Hải Hoa cũng thành thật bởi công việc này thực sự nguy hiểm. Đá ngầm dốc, sóng biển lại mạnh, nên thứ này thực sự khó hái.
Giang Doanh Tri thương lượng với bà và chốt giá 20 xu một cân nhưng cô Hải Hoa không đồng ý và chỉ chịu lấy 15 xu.
Cuối cùng cô Hải Hoa lôi kéo Tiểu Long và mang thùng về. Người phụ nữ này quấn một miếng vải xanh trên đầu, trong túi là tiền mực Giang Doanh Tri vừa đưa. Bà ngửa khuôn mặt ngăm đen lên và hát bài ca dao của cảng cá, chân bước dọc bờ đá bên bãi biển.
Giang Doanh Tri nhìn một lát, trên mặt không tự giác lộ ra tươi cười. Cô nghe thấy Tiểu Mai hỏi, “Chị lấy rau này làm gì?”
“Lấy làm sương sáo,” Giang Doanh Tri lại nói, “Không phải chúng ta làm.”
Từ ngày gặp chị Tiểu Yến ở bãi biển cô đã luôn muốn tìm một con đường để cô ấy kiếm tiền. Ngư dân có thể vá lưới nhưng một ngày cùng lắm chỉ kiếm được 20 xu. Và họ sẽ phải làm từ hừng đông đến khi trời tối. Mổ cá cũng không hợp, trừ phi có thể tới xưởng cá.
Giang Doanh Tri vẫn luôn cân nhắc chuyện này. Hiện tại thấy thạch trắng cô mới nhớ ra làm sương sáo không vất vả, một người có thể làm. Quy trình cũng đơn giản, ngoài thạch trắng cần giấm, một chút nước chấm. Túm lại tiền vốn không nhiều.
Nhưng cô không nói ngay cho cô ấy bởi xử lý thạch trắng khá phiền toái. Thứ này lúc tươi có màu tím, muốn nó biến thành màu vàng nhạt đẹp mắt thì phải phơi khô ban ngày, tối về ngâm nước. Cứ thế lặp lại mười mấy lần nó mới đổi màu, rau cũng biến từ khô quắt tới no tròn.
Muốn làm sương sáo phải phơi thạch trắng dưới ánh mặt trời cho tới khi bốc hết hơi nước và nó ngả sang màu vàng.
Vì thế cô muốn hỏi chị Tiểu Yến rồi mới tính tiếp. Nhưng cô không nói gì khiến Tiểu Mai chu mỏ khó hiểu.
Lát sau Trần Cường Thắng tới. Hiện tại anh có vẻ hăng hái, đi đường vẫn hơi khập khiễng nhưng từ dùng hai cái nạng tới dùng một cái nạng đã là đáng mừng.
Giang Doanh Tri còn đặc biệt dạy anh khi chống gậy phải chống ở bên chân không bị thương. Lúc bước chân bị thương ra thì gậy cũng phải bước cùng. Mọi người cứ nghĩ cái chân bị thương không thể dùng sức nên không dùng tới nó và chỉ toàn dựa vào gậy chống.
Tuy tư thế này khá kỳ quái nhưng sau khi quen rồi thì chân lành không cần phải gánh quá nhiều gánh nặng nữa. Cái chân bị thương cũng luôn được hoạt động nên việc đi đường cũng ổn hơn nhiều.
Nhưng việc này cũng rất đau và nỗi đau ấy kéo dài khiến người ta khó lòng kiên trì. Trần Cường Thắng chỉ đi từ nhà tới đây đã đổ đầy mồ hôi.
Anh rửa mặt sau đó nói với Giang Doanh Tri: “Sáng nay anh có đi nhìn boong thuyền thì thấy đều là gỗ sam. Anh sẽ dùng đống gỗ ấy làm cái cửa lớn cho mấy đứa.”
Rồi anh lại ôn hòa bổ sung thêm, “Làm cho Tiểu Yến một cái cửa sổ bằng gỗ. Trước kia đã thống nhất như thế.”
Tiểu Mai cười hì hì nói: “Bọn em cũng muốn cửa sổ bằng gỗ, có khắc hoa.”
“Vậy em đổi tay của anh Cường Thắng với chú Đại Mộc đi,” Giang Doanh Tri xử lý mực và đùa với hai người. Trong lúc đó cô cẩn thận lấy mai mực ra, đồng thời cố gắng để không đụng tới túi mực nếu không sẽ bẩn quần áo.
Thật ra mực này đúng ra phải gọi là mực nang và người dân Hải Phổ gọi bằng cả hai loại tên. Nếu người ta mang mực đi ướp muối thì còn gọi là táo đen hay ô mặc hồn tử. Còn nếu làm mực phơi khô thì ngoài tên gọi mực khô còn gọi là minh bô tưởng với ý đây là món hàng Minh Phủ cống nạp cho triều đình.
Giang Doanh Tri lại bỏ trứng của mực ra. Có mặt ở Vọng Hải vào mùa cá quả thực tốt vì có thể được ăn mực tươi ngon, còn có trứng mực.
Trứng của mực màu trắng và mềm mại giống vỏ bánh trôi còn mỡ (tuyến sinh dục) của mực thì có màu hơi ngả xanh. Trong mắt người dân Hải Phổ thì hai thứ này còn ngon hơn con mực. Ngoài việc ăn ngay họ còn có thể mang đi muối nếu không nó sẽ dễ biến chất. Nhưng khi muối phải đảm bảo không quá mặn.
Tiểu Mai và Trần Cường Thắng đều thò qua xem. Trước kia cứ tới mùa mực là họ chỉ chăm chăm ăn thịt, không ăn trứng, đặc biệt là phần mỡ kia, vừa nhão vừa dính, rất khó chịu.
“Cái này ăn thế nào?” Trần Cường Thắng lột da mực và ngó qua hỏi.
Giang Doanh Tri bảo Hải Oa đừng thổi ốc biển nữa rồi đáp: “Chưng lên ăn, vừa mặn vừa tươi. Chúng ta nấu ít cơm sau đó ăn với cái này.”
Cô băm chút thịt, bỏ thêm mực trứng, ngoài ra có thêm một quả trứng vịt, một ít rượu gia vị rồi bỏ vào nồi chưng cho chín.
Phần mỡ của mực được trộn với trứng gà và đánh tan, thêm rượu gia vị, muối, gừng băm, chút dấm cho bớt tanh rồi cững mang đi chưng.
Tới giữa trưa, mấy người nhìn hai đĩa đồ ăn thì thấy trứng mực trong suốt trộn với thịt và trứng, lại thêm nước sốt nên nhìn rất mê người. Phần mỡ thì hơi ngả màu nâu, giống canh trứng chưng quá lâu nên da bên trên hơi nhăn lại.
Hải Oa nhìn và nói: “So cá thòi lòi thì màu đẹp hơn.”
“Mấy người không ăn à?” Giang Doanh Tri hơi buồn bực bởi cô thích ăn cái này.
Mỡ của mực dẻo dẻo, nếu không xử lý tốt sẽ rất tanh, màu cũng không đẹp lắm. Nhưng mực trứng lại rất đẹp, cũng ngon, vừa cắn một miếng đã thấy mê. Giang Doanh Tri cũng không thể hình dung chính xác cái vị tươi ngon này là thế nào.
Tiểu Mai lấy hết can đảm múc một thìa sau đó bỏ vào miệng và dần dần trợn mắt. Cô nhóc nhai nhai một lát mới nói: “Đồ ăn ngon hay không chẳng liên quan gì tới đẹp hay không.”
Giang Doanh Tri nghe thế thì cười to. Cũng may cô không cho đứa nhỏ ăn túi mực, lúc ấy răng miệng đen thui mới gọi là sợ.
Bữa cơm này ai cũng ăn ngon. Đợi sau này mực nhiều hơn họ có thể lấy trứng và mỡ để mang đi bán. Còn hôm nay họ bán mực viên.
A Thanh, bà chủ cửa hàng khô, bưng bát tới và gọi, “Tiểu Mãn, có gì mau bưng lên cho chị đi. Chị đang bảo Tiểu Hoa trông hàng cho một lát để tới đây ăn. Bận quá chưa ăn được gì.”
“Chị ăn mực viên không?” Giang Doanh Tri xốc nắp nồi và thấy canh mực viên thả chút tảo tía, thêm hành. Vốn dĩ thế này đã đủ ngon và căn bản không cần bỏ thêm gì.
Tiểu Mai cười tủm tỉm nói: “Chị A Thanh, có thạch nữa đó, chị có ăn miến trộn không?”
“Miến trộn gì?” có người thò qua bên cạnh A Thanh và cúi đầu ngó nghiêng cái thớt.
“Là miến trộn, trước kia gọi là miến lạnh đó,” Giang Doanh Tri dùng đũa vớt sợi miến ngâm trong nước. Thứ này mềm và nhỏ hơn sợi bún một chút và được bán ở nơi khác.
Mấy ngày trước Giang Doanh Tri đã ủ một ít đậu giá và làm chút tương. Không có ớt cay nên cô trực tiếp lấy vừng, tỏi băm xối dầu sôi lên rồi thêm tương, dấm, sốt ốc là đủ trộn miến.
A Thanh nuốt nuốt nước miếng và nói: “Tiểu Mãn, em tự móc tiền từ túi chị đi, có cái món gì em làm mà chị không muốn ăn đâu.”
“Dùng bát của sạp làm cho chị hai phần miến trộn,” cô lại đưa ra cái bát mình mang theo và nói, “Rồi cho chị thêm một phần mực viên. Chị thèm cái món viên này lâu rồi.”
“Còn chú nữa. Chú cũng ăn một phần miến trộn. Hôm nay nóng nên không có khẩu vị, có hải sản trộn không?” Bên cạnh có khách quen hỏi.
Giang Doanh Tri vớt miến đã nấu chín qua một bên và giao cho Tiểu Mai để con bé trộn. Còn mình vừa lau mồ hôi vừa đáp, “Không có. Mấy ngày nay cháu tưởng có con nước nhỏ thì sẽ có nghêu sò linh tinh nhưng hóa ra toàn cua. Chắc phải đợi một thời gian nữa mới có.”
“Cũng phải, mới vào mùa hè, mặt trời chói chang lại không mưa gió thì đám nghêu sò sẽ không chui ra,” khách quen phe phẩy cái quạt hương bồ trong tay và nghĩ nghĩ rồi đưa cho cô, “Nấu cơm nóng lắm, cháu cầm lấy mà quạt. Ngày mai chú lại đưa cho mọi người hai cái nữa.”
A Thanh tấm tắc, “Đúng là quạt của nhà chú tốt, cháu ngồi bên cạnh cũng được hưởng tí gió. Mai chú mang cho cháu 2 cái tới cửa hàng đồ khô nhé.”
“Không thành vấn đề.”
Trong lúc hai người nói chuyện, Tiểu Mai đã quấy xong miến trộn, trong đó có chút đậu giá, mấy con tôm nõn, một thìa nước tương. Sợi miến vốn trắng nay biến thành màu tương quậy với vừng trắng, hành lá xanh, nhìn đã mê người.
Giang Doanh Tri cũng đưa mực viên qua. Viên mực màu trắng, tảo màu tía, lại thêm chút váng dầu cũng khiến người ta không nhịn được cắn một miếng nóng hầm hập dù đang mùa hè.
“Lần tới chú sẽ nhịn bữa sáng rồi mới tới chỗ mấy đứa,” ông chú cầm quạt hương bồ oán giận và hối hận vì vừa nãy đói bụng nên đã ăn mấy cái bánh. Hiện tại ông không ăn được nhiều mà đồ ăn thì rõ là mê người.
Ông ấy hạ quyết tâm ăn tuốt nên vừa phe phẩy quạt hương bồ vừa ăn miến trộn, thi thoảng ăn viên mực sau đó đi lại một lúc.
Nếu hỏi ông ấy đang làm gì thì ông sẽ đáp: “No quá, phải đứng lên đi lại cho tiêu bớt rồi lại ăn.”
Rồi ông ấy lại tìm Giang Doanh Tri nói chuyện phiếm và chỉ chỉ mảnh vải rách của cái sạp, “Không muốn đổi cái đỉnh lều à? Không phải mấy đứa thuê luôn chỗ này rồi ư? (Hãy đọc truyện này tại trang RHP) Vậy hỏi xem có thể dựng cái lều gỗ hay không? Như thế ngày mưa cũng không sợ ướt, trời nóng cũng không sợ nắng vỡ đầu. Nếu chỉ có mấy mảnh vải rách này thì quả thực không ổn. Mưa gió, nắng nôi gì cũng tới đầu, lúc mưa cũng không chạy kịp,” nghĩ tới đây là ông ấy đã đau lòng, “thế thì đồ ăn hỏng hết.”
Lúc này mẹ của đứa nhỏ lúc trước được Giang Doanh Tri làm cho một đĩa cá thòi lòi trong lễ khai trai cũng xen vào:” Đúng vậy, em gái đi hỏi đi. Nếu được thì chị bảo chồng chị tới dựng cái lều mới cho bọn em trong chiều nay.”
Giang Doanh Tri vừa nghe thế đã chạy tới Hà Bạc Sở hỏi thì biết khi dựng lều phải đào đất và cần nộp số tiền 600 xu. Cô đồng ý và nộp ngay.
Sau đó cô trở về nói với mọi người và bồi thêm: “Lát nữa cháu về nhà gọi cô chú nhà cháu tới giúp một tay.”
“Ấy, không cần đâu.” Mẹ đứa nhỏ tên là Thủy Hoa vừa nghe thấy thế đã vội vàng xua xua tay, “Chồng chị làm thợ mộc nên không thiếu gỗ, boong thuyền cũng rất nhiều. Chỉ cần cái khung rồi phủ mái là xong, không mất nhiều thời gian đâu.”
Những ngư dân vốn ăn cơm xong cũng không đi mà ở lại hỗ trợ. Giang Doanh Tri cũng chưa nói xong Thủy Hoa đã ôm con gái về nhà gọi chồng.
Không bao lâu sau, ngõ nhỏ truyền đến tiếng cái gì đó bị kéo lê. Hóa ra Thủy Hoa bảo chồng mình kéo mấy cây gỗ tới. Anh chồng lau mồ hôi trên trán và nói: “Có vị khách ban đầu chọn cái này nhưng sau lại không chọn nữa vì chê xấu. Anh đang định mang đi nhóm lửa thì nghe Thủy Hoa nói bọn em đang cần nên anh mang tới làm cây cột chống cho cái sạp. Đừng ngại nhé.”
“Đúng vậy, chờ xong việc chỉ cần mời chúng ta một bữa là được,” một ngư dân có làn da đen nhánh đi lên giúp vác cây cộ và nở nụ cười lộ hàm răng trắng.
Giang Doanh Tri cũng không làm ra vẻ. Đối mặt với ý tốt của mọi người, cô cũng thấy lòng rung lên nhưng gương mặt vẫn tươi cười nói: “Được, em cũng không tính qua tính lại với mọi người nữa. Nếu đã làm thì ta làm to một chút, như thế về sau mọi người cũng có chỗ che mưa, tránh gió.”
“Ngày mai mọi người tới sạp của em uống nước đường nhé. Mọi người không nhận tiền công thì em cũng không lấy tiền, nhà ai gần thì mang bát tới đựng nhé!”
Những người khác lập tức vui mừng hớn hở. Có người nói: “Vậy chúng ta đều chờ uống nước đường!”
Giang Doanh Tri và mọi người chuyển đồ qua đối diện để dựng sạp. Qua một buổi trưa những người ở đó hỗ trợ dựng cột. Việc này yêu cầu phải đào hố và mất chút thời gian.
Trần Cường Thắng cũng tới hỗ trợ nhưng có người chỉ vào cái ghế, “Cậu ngồi đó nghỉ đi, lát cần lại gọi cậu.”
“Ơ, cái búa đâu nhỉ? Gõ một cái đi, phải xây chắc một chút, về sau chúng ta đều ngồi đây ăn đó.”
“Ông nói lắm thế nhỉ? Dù không tới đây ngồi thì tụi tôi không biết cần phải làm chắc chắn à? Tôi nói với mọi người nhé, tôi còn chờ uống nước đường kia kìa,” một người phụ nữ mặt đầy mồ hôi, vừa đỡ cột vừa tươi cười.
Một người đàn ông khác bò lên thang, “Ai không chờ uống nước đường! Ấy, mọi người thả lỏng chỗ kia một chút. Lát nữa buộc dây cố định rồi treo lá cờ lên, đừng mắc lên gậy trúc cho phiền.”
“Được đó, lúc có gió thổi qua ốc biển kêu càng vang.”
Mười mấy người cứ thế bận rộn. Dần dần họ cũng dựng xong mấy cây cột, rồi dựng khung của cái lều. Tiếp theo họ đóng mấy tấm ván gỗ đã được quét dầu cây trẩu lên và dùng cỏ tranh lợp lại, như vậy sẽ không bị nắng chiếu.
Có người chạy tới cầm lá cờ hiệu trên cây gậy trúc và treo lên sau đó nhìn lá cờ một lúc mới nhận ra mấy chữ trên đó bị ngược.
Phía dưới có người nói: “Ông đúng là ngốc, có mấy chữ mà cũng không nhận ra. Tôi còn biết được vài chữ chứ không mù mắt như ông.”
“Giỏi thì lên mà treo.”
Đúng lúc này bà Tôn và chồng cầm mấy cuốn mành cỏ tới. Họ vẫy tay và ôn hòa nói: “Làm phiền mấy chú đóng cái này lên, đó chính là chỗ này, và phía trước. Như thế vào ngày nắng cũng có thể che chắn một chút.”
Bà lão này rất quan tâm tới người trẻ. Lúc trước bà lo mấy chị em Giang Doanh Tri bán không có lãi, nay thấy họ dựng lều bà lại sợ mọi người bị nắng chiếu nên vội mang mấy tấm mành cũ của nhà mình tới.
Lúc này treo mấy cái mành lên, đảm bảo không quá dài để tránh chặn mất ánh sáng rồi khó làm ăn.
Mọi người phối hợp với nhau cho tới khi mặt trời ngả bóng, mồ hôi nhễ nhại mới làm xong cái lều. Lúc này họ gọi Giang Doanh Tri tới xem.
Cô mời họ ngồi xuống ăn cái gì đó. Tiểu Mai quấy miến, Cường Tử múc canh, Giang Doanh Tri bưng đồ cho khách rồi nhân tiện nhìn nhìn.
Vừa rồi bận, mọi người cũng mải làm việc nên cô chỉ xem vài lần. Lúc này nhìn qua thì thấy quả thực không tồi. Nó thực giống một cái đình hóng gió, còn có mái hiên đua ra, mành cỏ ngắn treo chung quanh. Nhìn vào chỉ thấy chắc chắn, không sợ trời bỗng nhiên đổ mưa không có chỗ trốn.
Cô vội cảm ơn mọi người và có người vừa nhai cá viên vừa nói: “Cảm ơn thì không cần, ngày mai chúng tôi chờ uống nước đường nhé.”
Giang Doanh Tri nói: “Lát nữa tôi sẽ mua ít đồ về làm.”
Cô gọi: “Bà ơi, ngày mai bà cũng tới nhé, nếu không cháu sẽ bưng tới nhà bà.”
Bà Tôn cười hiền từ, “Bà chắc chắn sẽ tới. Cho bà hai bát.”
“Vâng ạ.”
Cũng có người nói với Giang Doanh Tri: “Chỗ chú có một gian phòng nhỏ, đủ kê 3-4 cái giường. Cháu có muốn thuê không? Một tháng chỉ cần trả 30 xu.”
Có người ở bên cạnh mắng: “Thuê làm gì? Mở cửa hàng hả? Có một nhúm đất thế thì mở cái gì?”
“Ông thì hiểu cái rắm,” người nọ trợn mắt, “Tôi nghĩ lâu rồi, ngày nào tụi nó cũng mang đi vác về lắm thứ thế này, đầu xuân lạnh còn không sao nhưng lúc này nắng thế thì quá vất vả.”
Rồi ông ấy nhấn mạnh: “Nếu mấy đứa nó bị cảm nắng thì tôi đi đâu ăn đồ ăn vừa ngon vừa rẻ thế này?”
Giang Doanh Tri vội vàng nói: “Cháu cũng đang muốn tìm chỗ để thuê. Cháu sẽ thuê chỗ đó, như thế cháu còn có thể bỏ thêm 1-2 cái bàn và mua thêm ít ghế.”
Thật ra cô cũng sầu. Ngày ngày mang đống đồ này qua lại, có cái còn nặng khiến ba người phải đi ba bốn lần mới dọn xong. Nay có chỗ để đồ thì bọn họ sẽ đỡ vất vả hơn nhiều.
Ông chú kia nghe thế thì vội nói: “Vậy lát nữa chú dẫn mấy đứa đi xem, cũng gần đây thôi.”
Chỗ đó cũng ở con đường này, và ở cùng bên. Một gian đằng trước nếu để ở thì hơi nhỏ nhưng để đồ thì lại đủ lớn. Họ có thể bỏ hết bàn ghế vào đó.
Giang Doanh Tri cũng rất vừa lòng còn Tiểu Mai thì vui vẻ nói: “Cuối cùng không cần mang theo đồ rồi qua lại vài lần để lấy nữa.”
Đây đúng là việc đáng mừng.
Trần Cường Thắng cũng cười, “Vậy cũng tốt. Ta cũng bỏ thùng nước ở đây luôn. Hôm nay anh sẽ chèo thuyền về và nhờ chú Đại Mộc làm cái lều cho thuyền của chúng ta.”
Rồi anh lại nói: “Tiền thì để anh bỏ ra, hai đứa đừng tranh với anh làm gì.”
Giang Doanh Tri cảm thấy hôm nay đúng là ngày tốt. Cô thật muốn xem lịch xem có phải hôm nay ghi mọi việc đều thuận lợi hay không.